Nghiên cứu độ nhạy các mô hình vật lý sử dụng trong code tính toán thủy nhiệt RELAP5 dựa trên số liệu thực nghiệm của hệ thực nghiệm FEBA

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
NGHIÊN CỨU ĐỘ NHẠY CÁC MÔ HÌNH VẬT LÝ  
SỬ DỤNG TRONG CODE TÍNH TOÁN THỦY NHIỆT  
RELAP5 DỰA TRÊN SỐ LIỆU THỰC NGHIỆM  
CỦA HỆ THỰC NGHIỆM FEBA  
Trong phân tích an toàn thủy nhiệt, kết quả tính toán mô phỏng sử dụng các phần mềm thủy  
nhiệt phụ thuộc rất nhiều vào việc mô hình các hiện tượng vật lý đã được xây dựng trong các phần  
mềm này. Các mô hình vật lý là các phương trình bão toàn, các công thức thực nghiệm được phát  
triển dựa trên việc làm khớp chúng với các số liệu thực nghiệm, hoặc dựa trên các giả thiết, đơn giản  
hóa để giải các phương trình lý thuyết. Chính vì vậy, các mô hình vật lý đó cần phải xem xét độ bất  
định mà chúng đưa vào trong kết quả tính toán. Để tính toán độ bất định, khảo sát độ nhạy trước hết  
được thực hiện để tìm ra những mô hình vật lý có tầm ảnh hưởng lớn lên kết quả tính toán cho kịch  
bản tái ngập vùng hoạt. Khảo sát độ nhạy này được thực hiện dựa trên các số liệu thực nghiệm đo  
đạc trên hệ thí nghiệm FEBA. Dựa trên hai tiêu chuẩn nhiệt độ cực đại và thời gian dính ướt, có bốn  
mô hình vật lý có ảnh hưởng lớn lên kết quả tính toán đã được chọn từ 16 mô hình vật lý được xem  
xét. Bốn mô hình này sẽ được nghiên cứu sâu hơn để đánh giá độ bất định mà chúng gây ra lên kết  
quả tính toán trong pha tiếp theo.  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Giai đoạn tái ngập là giai đoạn quan trọng trong  
đó thanh nhiên liệu có thể bị phồng, bị vỡ, bị ôxi-  
hóa, hoặc thậm chí bị nóng chảy nếu thanh nhiên  
liệu không thể được làm mát thích hợp. Pha tái  
ngập trong kịch bản này bắt đầu khi phần dưới  
của đáy thùng lò đã được làm đầy nước và các  
thanh nhiên liệu bắt đầu được tái ngập. Hơi nước  
được hình thành trong giai đoạn tái ngập này với  
vận tốc rất lớn và cuốn theo các giọt nước làm  
cho các chế độ truyền nhiệt trong pha này trở nên  
phức tạp, chuyển từ đơn pha khí, hai pha khí- lỏng  
và cuối cùng là đơn pha lỏng. Chế độ dòng chảy  
thẳng đứng chín chế độ (bốn chế độ truyền nhiệt  
trước thông lượng nhiệt tới hạn (CHF), bốn chế  
độ truyền nhiệt sau CHF và một chế độ truyền  
nhiệt phân tầng) được sử dụng trong các phần  
mềm nhiệt-thủy lực để mô phỏng pha tái ngập  
[1, 2]. Mỗi loại chế độ dòng chảy thường sử dụng  
Trong kịch bản sự cố vỡ lớn do mất nước làm mát  
(LBLOCA), sự thay đổi nhiệt độ của vỏ thanh  
nhiên liệu có thể được chia thành bốn giai đoạn  
chính: xả áp, nạp đầy đáy, tái ngập, và làm mát dài  
hạn được thể hiện trong Hình 1.  
Hình 1. Sự thay đổi nhiệt độ vỏ nhiên liệu trong  
các pha trong tai nạn vỡ lớn [3].  
Số 67 - áng 6/2021 21  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
một số mô hình truyền nhiệt nhất định. Sự thay vào cho SA, một số tham số ảnh hưởng không  
đổi chế độ chảy dẫn đến các mô hình hệ số truyền đáng kể đến kết quả tính toán, trong khi những  
nhiệt cũng thay đổi theo như từ mô hình truyền tham số khác ảnh hưởng lớn lên kết quả tính  
nhiệt Chen, Dittus-Boelter, Bromley, Zuber CHF, toán. ông qua quá trình SA, các thông số đầu  
hoặc CHF Bảng tra cứu [1, 2].  
vào ảnh hưởng nhất được lựa chọn. Đây là một  
công cụ hữu ích để giảm số lượng phép tính bằng  
cách giảm các tham số đầu vào được xem xét mà  
vẫn giữ nguyên độ chính xác của phép toán. Từ  
hai mươi đến cả trăm tham số đầu vào ban đầu,  
thông qua tính toán độ nhạy có thể giảm số lượng  
đầu vào xuống dưới mười tham số [6, 7, 8].  
Các phần mềm thủy lực nhiệt như RELAP5,  
MARS, TRACE, hoặc CATHARE, đã được sử  
dụng rộng rãi trong phân tích an toàn lò phản  
ứng. Trong số đó, RELAP5 là công cụ thích hợp  
để sử dụng trong việc tính toán kiểm tra cấp  
phép, đánh giá các hướng dẫn vận hành và làm  
cơ sở cho phân tích nhà máy điện hạt nhân [1, Vhệ thực nghiệm, hệ FEBA được lựa chọn. Kịch  
4]. Trong phần mềm này, cùng với các điều kiện bản tái ngập thuộc loại phức tạp nhất về mặt thủy  
ban đầu và biên, các mô hình vật lý (PM) thường nhiệt vì trong quá trình tái ngập có rất nhiều cơ  
được sử dụng trong mô phỏng. Các mô hình này chế truyền nhiệt của pha hơi, hai pha và pha lỏng  
thường được xây dựng dựa trên cả lý thuyết và tồn tại. Cùng với đó, các chế độ dòng chảy cũng  
thực nghiệm. Các mô hình lý thuyết sử dụng thay đổi rất phức tạp. Các nghiên cứu đã thực  
các giả định, đơn giản, lý tưởng hóa và các quy hiện nhiều thí nghiệm để nghiên cứu cơ chế thủy  
trình lý tưởng để giải, trong khi các mô hình thực nhiệt cũng như các hiện tượng xảy ra trong giai  
nghiệm được phát triển dựa trên các thí nghiệm đoạn tái ngập để đánh giá và cải thiện khả năng  
cụ thể với các điều kiện biên và điều kiện ban đầu dự đoán các phần mềm thủy nhiệt. Chương trình  
xác định. Nghĩa là luôn có những giới hạn nhất kiểm tra Hiệu ứng Hệ thống và Hiệu ứng Riêng  
định về khả năng ứng dụng của các mô hình vật biệt (FLECHT-SEASET) đã tập trung vào cơ chế  
lý. Độ chính xác của dự đoán trong mô phỏng truyền nhiệt ở tốc độ dòng chảy tái ngập cao với  
luôn là một vấn đề thách thức mà các nhà phát sự thay đổi của công suất [9]. Tuy nhiên, những  
triển phần mềm cần phải giải quyết và tìm cách thí nghiệm này không đủ để định lượng các  
cải thiện. Các mô hình vật lý được đề xuất là các hiện tượng liên quan đến cơ chế tái ngập chi tiết  
thông số có ảnh hưởng lớn đến kết quả tính toán do một số bất định sinh ra trong thực nghiệm.  
và cần phải được đánh giá thêm [5].  
Chương trình RBHT (Truyền nhiệt trong bó  
nhiên liệu) [11] được đề xuất để cải thiện những  
hạn chế thực nghiệm trước đây. ử nghiệm này  
được thực hiện để khảo sát sự truyền nhiệt phần  
đáy vùng hoạt lên khi thay đổi tốc độ dòng chảy  
tái ngập với thay đổi áp suất phần trên. Giống  
như thử nghiệm RBHT, FEBA (ử nghiệm ngập  
lụt với các mảng bị chặn) [12] được thực hiện  
để nghiên cứu cơ chế truyền nhiệt. Các tác động  
của bộ đệm lưới và sự phình nhiên liệu trong  
giai đoạn tái ngập đã được xem xét cho các thí  
nghiệm trên hệ FEBA nhằm đánh giá, phát triển  
và cải tiến các mô hình đã được xây dựng [12].  
2. PHƯƠNG PHÁP, CÔNG CỤ TÍNH TOÁN  
HỆ THỰC NGHIỆM VÀ MÔ HÌNH HỆ  
FEBA  
2.1. Phương pháp, công cụ tính toán và hệ thực  
nghiệm  
Về phương pháp, phân tích độ nhạy (SA) cho  
thấy các giá trị khác nhau của một biến đầu vào  
độc lập ảnh hưởng như thế nào đến một biến đầu  
ra phụ thuộc cụ thể bằng cách sử dụng một tập  
hợp các giả định. Trong số tất cả các tham số đầu  
22 Số 67 - áng 6/2021  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Về phần mềm tính toán, phần mềm RELAP5 bằng. Sau đó, nước làm mát được cấp vào hệ từ  
được lựa chọn. Đây là phần mềm tính toán thủy phần dưới (10) để mô phỏng pha tái ngập. Trong  
nhiệt được sử dụng rộng rãi, có bề dày lịch sử quá trình tiến hành thí nghiệm, nhiệt độ của  
trong phân tích an toàn và cấp phép do Cục quản khung chứa (phần không được gia nhiệt) và vỏ  
lý hạt nhân Mỹ (USNRC) phát triển [13]. Phần nhiên liệu (phần được gia nhiệt) được đo tại các  
mềm này cũng có khả năng mô phỏng pha tái vị trí khác nhau dọc trên bề mặt trục của chúng.  
ngập. Các tính toán độ nhạy, độ bất định cũng đã  
được thực hiện trên phần mềm này.  
2.2. Mô hình hệ thực nghiệm FEBA  
Nhiên liệu của hệ thí nghiệm FEBA là một bó  
thanh nhiên liệu có kích thước 5x5 như bó nhiên  
liệu thật của lò phản ứng nước áp lực (PWR)  
(Hình 2a) [12]. Nó được bao quanh bởi một vỏ  
hình vuông làm bằng thép không gỉ (Hình 2b) và  
được gia nhiệt bằng điện theo công suất cô-sin  
bảy bậc với mật độ công suất khác nhau (Hình  
2c). Mô hình của phần chính của hệ thực nghiệm  
FEBA (Hình 2d) được xây dựng dựa trên sơ đồ  
cấu tạo bộ phận chính của hệ FEBA (Hình 2e).  
Mô hình phần chính của hệ thí nghiệm FEBA  
được chia làm ba phần khác nhau: thể tích đầu  
vào (150) tương ứng với khoang dưới (10), phần  
thử nghiệm chính bao gồm thanh gia nhiệt (11),  
Hình 2. Sơ đồ nút hóa của thí nghiệm FEBA  
trong RELAP5: (a) Cấu trúc cắt ngang của thanh  
nhiên liệu; (b) Cấu trúc cắt ngang của bó nhiên  
liệu trong thí nghiệm FEBA; (c) Công suất cô-sin  
của các thanh nhiên liệu theo 7 bậc khác nhau;  
(d) Sơ đồ nút hóa hệ thí nghiệm FEBA trong RE-  
LAP5; (e) Phần chính của hệ thí nghiệm FEBA  
và thể tích đầu ra (650) là khoang trên (12). Chiều  
dài thanh gia nhiệt là 3.9 mét được chia thành 39  
đoạn có độ dài 0.1 mét. Trên thực tế, tổng chiều  
dài thanh nhiên liệu trong hệ FERBA là 4.114 m.  
Tuy nhiên, phần chứa chất gia nhiệt chỉ có chiều  
dài là 3.9 mét, tức là từ 75 mm đến 3975 mm, như  
minh họa trong Hình 2c. Trong mô hình hệ thí  
nghiệm FEBA, các lưới giằng (tại các nút 4, 9, 15,  
20, 25, 31 và 36) cũng như khung chứa đề được  
xét đến như được thể hiện trong Hình 2d.  
3. KẾT QUẢ TÍNH TOÁN  
3.1. Trường hợp tham chiếu  
Trường hợp tham chiếu là trường hợp tất cả các  
mô hình vật lý xem xét với các giá trị mặc định  
của chúng là 1.0. Có mười sáu mô hình vật lý với  
các hàm phân bố (PDF) và dải giao động được  
chọn trong nghiên cứu độ nhạy như được liệt kê  
trong Bảng 1.  
Dựa trên tiến trình thực hiện thí nghiệm cũng  
như các điều kiện ban đầu và điều kiện biên cho  
thí nghiệm 216, tính toán tiến hành mô phỏng  
cho cả hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là mô phỏng  
việc hâm nóng hệ bằng hơi đơn pha ở công suất  
thấp trong khoảng 1000 s cho đến khi đạt đến  
nhiệt độ ổn định của nhiệt độ vỏ nhiên liệu. Giai  
đoạn tiếp theo là mô phỏng quá trình chuyển tiếp  
tái ngập bằng cách kích hoạt cấp nước từ lối vào  
í nghiệm ban đầu được làm nóng bằng hơi ở  
công suất thấp (200 kW) để đạt được nhiệt độ  
ban đầu cần thiết trước khi mô phỏng quá trình  
tái ngập. eo đường cong công suất nhiệt phân  
rã 120% Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANS), quá  
trình đun nóng hệ được tiến hành trong khoảng  
40 giây sau khi lò phản ứng ngừng hoạt động để  
đạt nhiệt độ mong muốn ban đầu ở trạng thái cân  
Số 67 - áng 6/2021 23  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Bảng 1. Các mô hình vật lý, hàm phân bố và dải dao động của chúng  
lên bộ phận chính của hệ thí nghiệm, công suất  
bó nhiên liệu được áp dụng theo đường công suất  
mô phỏng nhiệt phân rã theo Chuẩn ANS 120 %  
nhằm mô phỏng quá trình tái ngập. Trong giai  
đoạn làm nóng bằng hơi đến nhiệt độ ổn định,  
kết quả tính toán nhiệt độ ban đầu của vỏ thanh  
nhiên liệu và khung chứa được so sánh với số  
liệu thực nghiệm như được chỉ ra trong Hình 3.  
So sánh này chỉ ra rằng quá trình mô phỏng đun  
nóng hệ thí nghiệm đã đạt được kết quả giống  
như đo đạc thực tế.  
Hình 3. So sánh phân bố nhiệt độ ban đầu của vỏ  
thanh nhiên liệu và khung chứa  
Hình 4. So sánh kết quả nhiệt độ tính toán của vỏ Hình 5. So sánh kết quả nhiệt độ tính toán của vỏ  
thanh nhiên liệu với các số liệu thực nghiệm và  
tính toán sử dụng phần mềm MARS-3D [5]  
thanh nhiên liệu với các số liệu thực nghiệm và  
tính toán khác sử dụng phần mềm RELAP5 [5]  
24 Số 67 - áng 6/2021  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Khi chuyển từ trang thái ổn định sang trạng thái  
chuyển tiếp, các kết quả tính toán mô phỏng cho  
bài toán tham chiếu ở các độ cao khác nhau (ở  
phần dưới, phần giữa và phần trên của thanh  
nhiên liệu) được so sánh với dữ liệu thực nghiệm  
và các tính toán khác sử dụng phần mềm MARS-  
3D (KAERI [5]), và RELPA5 (UNIPI [5]) như  
hình minh họa trong Hình 4 và Hình 5.  
Từ các so sánh trên có thể kết luận rằng input của  
thí nghiệm 216 cho kết quả tương tự với kết quả  
tính toán từ các phần mềm thủy nhiệt khác và có  
kết quả khá gần với đo đạc thực nghiệm. Từ kết  
quả so sánh nói trên, input này có thể sử dụng  
cho các nghiên cứu tiếp theo.  
Hình 6. So sánh kết quả tính toán nhiệt độ mô  
phỏng trong trường hợp trước (no) và sau khi kích  
hoạt (with) lựa chọn xem xét độ nhạy của các mô  
hình vật lý  
Kết quả tính toán trước khi kích hoạt các mô hình  
vật lý (Cal_xxno) hoàn toàn giống với kết quả  
tính toán sau khi kích hoạt chúng (Cal_xxwith).  
Trong đó xx là chín vị trí (02, 07, 12, 18, 20, 23,  
26, 29 và 34) như được minh họa trong Hình 6.  
3.2. Tính toán độ nhạy  
Để xem xét độ nhạy của các mô hình vật lý, các lựa  
chọn để xem xét 16 mô hình vật lý được kích hoạt  
như trong Bảng 1. Bài toán tham chiếu là bài toán  
mà các mô hình vật lý có hệ số mặc định được  
lựa chọn (giá trị là 1.0). Cần lưu ý rằng là khi kích  
hoạt chức năng này kết quả tính toán phải đảm  
bảo là không đổi. Kết quả tính toán trước và sau  
khi kích hoạt tính toán độ nhạy cho các mô hình  
vật lý được chỉ ra trong Hình 6.  
Trong tính toán với trường hợp tham chiếu, kết  
quả phân bố nhiệt độ chỉ ra rằng vị trí nút 26 có  
nhiệt độ cao nhất, PCT xảy ra, tương ứng với độ  
cao 1400 mm. Đây được chọn là vị trí tham chiếu  
và được dùng để tính phân bố nhiệt độ trong  
phân tích độ nhạy.  
Hình 7. Kết quả tính toán độ nhạy với 16 mô hình vật lý  
Số 67 - áng 6/2021 25  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Bằng cách lấy giá trị min và max của mỗi tham số  
trong 16 tham số, thực hiện truyền thông tin qua  
tham số lối ra là PCT và thời gian dính ướt, có tất  
cả 32 trường hợp được tính toán tại vị trí tham  
chiếu có PCT xảy ra (1400 mm) và kết quả được  
chỉ ra như trong Hình 7. Có thể thấy rằng kết quả  
tính toán có phân bố khá đối xứng về mặt nhiệt độ  
so với trường hợp tham chiếu (chỉ ra bằng đường  
đậm nét đứt quãng) và thực nghiệm. Tuy nhiên  
thời gian dính ướt trong tính toán mô phỏng cho  
một số trường hợp trong tổng 32 trường hợp này  
lại có thăng giáng đáng kể.  
Hình 8. Độ nhạy các mô hình vật lý theo tiêu  
chuẩn PCT  
Để phân tích độ nhạy, cần phải lựa chọn ra các  
tiêu chuẩn để đánh giá. Các tiêu chí được lựa  
chọn cho nghiên cứu độ nhạy trong đề tài này  
dựa trên các tiêu chí đã cho [5].  
Đối với quá trình đánh giá và cấp phép về mặt  
thủy nhiệt, PCT là tiêu chí chính được lựa chọn.  
Trong kịch bản tái ngập được xem xét, thời gian  
dính ướt là một hiện tượng điển hình. Nó xác  
định tình trạng bề mặt của thanh, Tw, là khô nếu  
nhiệt độ của thanh cao hơn nhiệt độ bão hòa  
khoảng 30 độ, Tw = T + 30, và ngược lại thì vỏ  
thanh nhiên liệu là bị sưatớt.  
Hình 9. Độ nhạy các mô hình vật lý theo tiêu  
chuẩn thời gian dính ướt  
Có thể thấy rằng đối với cả hai tiêu chuẩn đánh  
giá độ nhạy, các mô hình vật lý từ với chỉ số  
tương ứng, từ 1 đến 5 và từ 11 đến 13, có rất ít  
ảnh hưởng lên kết quả tính toán của nhiệt độ vỏ  
thanh nhiên liệu cũng như thời gian dính ướt.  
Dựa theo tiêu chuẩn đánh giá độ nhạy PCT đã  
nêu trên, có thể thấy rằng có ba mô hình vật lý  
(các mô hình với chỉ số là 6, 14, và 16) có ảnh  
hưởng lớn nhất đến nhiệt độ vỏ thanh nhiên liệu.  
Dựa theo tiêu chuẩn đánh giá độ nhạy thời gian  
dính ướt, các mô hình vật lý có chỉ số tương ứng  
là 6, 9, và 14 có ảnh hưởng lớn đến kết quả tính  
toán thời gian dính ướt.  
Chính vì thế, hai tiêu chuẩn được lựa chọn trong  
nghiên cứu độ nhạy của đề tài là PCT và thời gian  
dính ướt:  
Tiêu chí PCT được xác định là giá trị tuyệt đối  
của độ thay đổi nhiệt độ PCT:  
∆T (=PCTi - PCT ) = 10 (°C)  
ref  
ref  
trong đó i = 1, …, 32.  
Tiêu chuẩn thời gian dính ướt là độ thay đổi trong  
thời gian dính ướt:  
∆tquench (=tq,i - tq,ref) = 50 (s)  
Như vậy, tính toán độ nhạy áp dụng hai tiêu chí  
đánh giá là PCT và thời gian dính ướt chỉ ra 4  
tham số (IP6, IP9, IP14 và IP16) có tác động đáng  
kể nhất lên kết quả tính toán. Chúng được tổng  
kết như trong Bảng 2.  
Kết quả tính toán độ nhạy được thể hiện trong  
Hình 8 và Hình 9 trong đó các kết quả tính toán  
của giá trị Min và Max trong bảng chú thích  
tương ứng với giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của 16  
tham số đầu vào xem xét.  
26 Số 67 - áng 6/2021  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Bảng 2: Bốn mô hình vật lý có tác động lớn lên nghiên cứu này. Các PM được phân tích độ nhạy  
kết quả đầu tính toán đầu ra  
thông qua mô phỏng hệ thực nghiệm FEBA dựa  
trên các số liệu thực nghiệm của Chuỗi 1 trong  
các thí nghiệm thực hiện trên hệ FEBA. Trường  
hợp tham chiếu đã được lựa chọn và kết quả mô  
phỏng đã chứng tỏ quá trình gia nhiệt tương tự  
như đã tiến hành trong thực nghiệm. Có 16 mô  
hình vật lý đã được chọn cho nghiên cứu độ nhạy  
dựa trên hai tiêu chí về PCT và thời gian dính  
ướt. Kết quả tính toán độ nhạy chỉ ra rằng bốn  
mô hình vật lý với chỉ số tương ứng là 6, 9, 14 và  
16 có ảnh hướng lớn đến kết quả tính toán trong  
số mười sáu tham số đầu vào được xem xét. Có  
thể nhận thấy rằng bốn tham số này đều là các  
tham số quan trọng trong giai đoạn tái ngập và  
cần được xem xét kỹ hơn về đóng góp độ bất định  
của chúng trong kết quả tính toán.  
Có thể nhận thấy rằng bốn tham số này đều là  
các tham số quan trọng trong giai đoạn tái ngập  
vì chúng liên quan đến chế độ dòng chảy và các  
hiện tượng vật lý đặc trưng cho quá trình tái  
ngập. Hệ số sôi màng (IP6) là một hiện tượng chi  
phối chính trong quá trình truyền nhiệt trong  
giai đoạn tái ngập. Dòng hơi với các giọt cuốn  
theo (entrained droplets) (IP9) có kích thước và  
vận tốc khác nhau, có ảnh hưởng mạnh mẽ tốc độ  
dòng cũng như khả năng truyền nhiệt [14]. Tiêu  
chí khô hay ướt của vỏ thanh nhiên liệu (IP14)  
dẫn đến việc lựa chọn các hệ số truyền nhiệt hoàn  
toàn khác nhau. Quá trình bị dính ướt đột ngột  
và quá trình bị trì hoãn sự dính ướt là hai hiện  
tượng thường đi kèm trong quá trình dính ướt.  
Kết quả tính toán độ nhạy trong đề tài này được  
chỉ ra trong Hình 1.9. Có thể thấy rằng quá trình  
trì hoãn sự dính ướt là chiếm ưu thế. Điều này  
chứng tỏ rằng tiêu chuẩn dính ướt cũng cần phải  
được đánh giá kỹ hơn. Mô hình vật lý được chọn  
cuối cùng, sự truyền nhiệt tại mặt phân cách  
giọt-hơi nước (IP16), góp phần đáng kể vào việc  
truyền nhiệt, đặc biệt là trong giai đoạn tái ngập.  
Số lượng giọt nước mang kèm hơi nước và kích  
thước của giọt nước một phần quyết định khả  
năng truyền nhiệt chung, dẫn đến giảm nhiệt độ  
của thanh nhiên liệu. Do đó tham số IP16 cũng là  
tham số cần có các đánh giá về độ bất định.  
Trần anh Trầm, Hoàng Tân Hưng,  
Đoàn Mạnh Long, Vũ Hoàng Hải  
Trung tâm Đào tạo hạt nhân  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] USNRC, RELAP5/Mod3.3 code manual Vol-  
ume I: Code Structure, System Models, and Solu-  
tion Methods., vol. 1, 2001.  
[2] ISL, RELAP5/MOD3.3 code manual volume  
IV: models and correlations, NUREG/CR-5535/  
Rev P3-Vol IV, 2006.  
[3] NEA, Nuclear fuel behaviour in loss-of-cool-  
ant accident (LOCA) conditions: State-of-the-art  
Report, Nuclear Energy Agency, 2009.  
[4] Choi T. S., No H. C., Improvement of the  
reflood model of RELAP5/MOD3.3 based on the  
assessments against FLECHT-SEASET tests, Nu-  
clear Engineering and Design, Vol. 240, pp.832–  
841, 2010.  
4. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ  
Trong số các điều kiện đầu vào như điều kiện ban  
đầu, điều kiện biên và PM, PM được đề xuất là  
các tham số có ảnh hưởng nhất đến kết quả tính  
toán. Chính vì vậy, các PM là trọng tâm trong  
[5] Kovtonyuk, A. et al., Post-BEMUSE Reood  
Model Input Uncertainty Methods (PREMIUM)  
Benchmark:FinalReport, NEA/CSNI/R(2016)18,  
Số 67 - áng 6/2021 27  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
2017.  
[6] Kovtonyuk A. et al., Post-BEMUSE Reood  
Model Input Uncertainty Methods (PREMIUM)  
Benchmark Phase II: Identification of Inuential  
Parameters, NEA/CSNI/R(2014)14, 2015.  
[7] Perez M. et al., Uncertainty and sensitivity  
analysis of a LBLOCA in a PWR Nuclear Power  
Plant: Results of the Phase V of the BEMUSE pro-  
gramme, Nuclear Engineering and Design, Vol.  
241, pp. 4206 – 4222, 2011.  
[8] Horst Glaeser, GRS Method for Uncertainty  
and Sensitivity Evaluation of Code Results and  
Applications, Science and Technology of Nuclear  
Installations, pp. 1-7, 2008.  
[9] Lee N. et al., PWR FLECHT-SEASET un-  
blocked bundle, forced and gravity reood task  
data evaluation and analysis report, NUREG/CR-  
2256, 1982.  
[10] Seo G. H. et al. Numerical analysis of RBHT  
reood experiments using MARS 1D and 3D  
modules, Journal of Nuclear Science and Tech-  
nology, Vol. 52, pp.70-84, 2015.  
[11] Hochreiter L. E. et al., RBHT reood heat  
transfer experiments data and analysis, NUREG/  
CR-6980, 2012.  
[12] Ihle P., Rust K., FEBA Flooding Experiments  
with Blocked Arrays Evaluation Report, März  
1984.  
[13] Mesina G. L., A History of RELAP Comput-  
er Codes, Nuclear Science and Engineering, vol.  
182, v–ix, 2016.  
[14] Berna C. et al., Review of droplet entrain-  
ment in annular ow: Characterization of the en-  
trained droplets, Progress in Nuclear Energy, Vol.  
79, pp. 64-86, 2015.  
28 Số 67 - áng 6/2021  
pdf 8 trang yennguyen 20/04/2022 1700
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu độ nhạy các mô hình vật lý sử dụng trong code tính toán thủy nhiệt RELAP5 dựa trên số liệu thực nghiệm của hệ thực nghiệm FEBA", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_do_nhay_cac_mo_hinh_vat_ly_su_dung_trong_code_tin.pdf