Phát triển du lịch cộng đồng nhằm giải quyết việc làm và đảm bảo sinh kế cho người dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc
No.20_Mar 2021|p.47-52
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
DEVELOPING COMMUNITY BASED TOURISM TO CREATE JOBS AND
TO MAINTAIN LIVELIHOOD FOR SAN DIU PEOPLE
IN VINH PHUC PROVINCE
Nguyen Duc Khiem1,*
1 Vinh Phuc College
Article info
Abstract
Community based tourism is attracting tourists, especially in midland and northern
mountainous areas. With advantages of natural landscape and ethnic cultural
characteristics, community based tourism not only create profit for indigenous
people but also help preserve and develop ethnic cultural characteristics. The article
showed potentials in developing community based tourism of San Diu people in
Vinh Phuc province to develop livelihood and conserve ethnic cultural
characteristics which is interest of Vinh Phuc Party Committee.
Recieved:
17/12/2020
Accepted:
22/02/2021
Keywords:
Community based
tourism, ethnic cultural
characteristic,
livelihood for people
No.20_Mar 2021|p.47-52
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
VÀ ĐẢM BẢO SINH KẾ CHO NGƯỜI DÂN TỘC SÁN DÌU Ở VĨNH PHÚC
Nguyễn Đức Khiêm1,*
1 Trường CĐ Vĩnh Phúc
Tóm tắt:
Thông tin tác giả
Du lịch cộng đồng đang là xu hướng hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt ở khu vực
trung du miền núi phía bắc. Với lợi thế về cảnh quan tự nhiên và bản sắc văn
hóa các tộc người, du lịch cộng đồng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho cư
dân bản địa mà còn góp phần bảo tồn và phát huy những nét văn hóa tộc người
độc đáo. Bài viết, chỉ ra các tiềm năng khai thác du lịch cộng đồng của đồng
bào dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc trong định hướng phát triển sinh kế cũng
như bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người là một hướng đi đang được đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc rất quan tâm.
Ngày nhận bài:
17/12/2020
Ngày duyệt đăng:
22/02/2021
Từ khóa:
Du lịch cộng đồng, bản
sắc văn hóa tộc người,
sinh kế cho người dân.
N.Đ.Khiem/ No.20_Mar 2021|p.47-52
kiện giao lưu văn hóa - xã hội giữa các dân tộc, các
vùng miền, tạo cơ hội việc làm, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người dân địa phương.
1. Đặt vấn đề
Du lịch cộng đồng dựa trên nhu cầu, mong
muốn được tìm hiểu khám phá của du khách để
hiểu thêm và có được nhiều trải nghiệm về cuộc
sống hàng ngày của người dân từ các nền văn hóa
khác nhau và khám phá thiên nhiên. Du lịch cộng
đồng là một loại hình du lịch do chính cộng đồng
người dân phối hợp tổ chức, quản lý và làm chủ để
đem lại lợi ích kinh tế và bảo vệ được môi trường
chung thông qua việc giới thiệu với du khách các
nét đặc trưng của địa phương. [6, tr.3]. Như vậy, du
lịch cộng đồng không chỉ góp phần vào công tác
bảo tồn các nét văn hóa bản địa và giữ gìn cảnh
quan tự nhiên của các địa phương mà còn mang lại
lợi ích kinh tế, xã hội góp phần quan trọng vào việc
xóa đói, giảm nghèo, tạo sinh kế bền vững cho
người dân địa phương và đẩy nhanh quá trình xây
dựng nông thôn mới văn minh, sạch đẹp trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Vĩnh Phúc là một tỉnh trong vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của Thủ đô, gần sân bay
Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây
Bắc với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Vĩnh Phúc có dãy núi Tam Đảo kéo dài từ xã Đạo
Trù - điểm cực bắc của tỉnh đến xã Ngọc Thanh -
điểm cực đông của tỉnh với chiều dài trên 30 km,
phía tây nam được bao bọc bởi sông Hồng và sông
Lô, tạo nên dạng địa hình thấp dần từ đông bắc
xuống tây nam và chia tỉnh thành ba vùng có địa
hình: đồng bằng, gò đồi, núi thấp và trung bình. Sự
thuận lợi về vị trí địa lý tạo điều kiện liên kết phát
triển du lịch vùng trung du miền núi phía bắc với
những điểm thăm quan trong tỉnh và các tỉnh lân
cận. Trên địa bàn tỉnh có sự quần tụ của 07 dân tộc
anh, em cùng sinh sống: Kinh, Sán Dìu, Nùng, Dao,
Tày, Cao Lan, Mường, tạo nên bức tranh văn hóa
đa dạng, tạo sức hấp dẫn trong khai thác du lịch
cộng đồng.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Điều kiện khai thác du lịch cộng đồng của
người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc
Hiện nay, có nhiều quan niệm và cách hiểu khác
nhau về khái niệm du lịch cộng đồng. Theo quan
điểm được đưa ra trong bộ Tiêu chuẩn về du lịch
cộng đồng được các quốc gia Đông Nam Á đồng
thuận năm 2016 cho rằng: “Du lịch cộng đồng là
hình thức du lịch được sở hữu, vận hành, điều phối
và quản lý bởi cộng đồng nhằm hướng tới việc cải
thiện điều kiện kinh tế cộng đồng thông qua các
hoạt động hỗ trợ sinh kế bền vững, duy trì và bảo
vệ các truyền thống văn hóa xã hội có giá trị, cũng
như các nguồn tài nguyên thiên nhiên” [1, tr.40-41].
Nhóm tác giả Harold Goodwin & Rosa Santilli
quan niệm: “Du lịch cộng đồng là hoạt động du lịch
được sở hữu hoặc quản lý bởi cộng đồng nhằm tạo
ra lợi ích lớn lao hơn cho cộng đồng” [3, tr.1-37].
Khoản 15, Điều 3 Luật Du lịch của nước ta quy
định: “Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được
phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng
đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai
Nằm ở vùng chuyển tiếp giữa miền núi phía bắc
và đồng bằng sông Hồng nên thuận lợi cho việc tụ
cư và đa dạng loại hình sản xuất. Yếu tố địa văn
hóa góp phần quan trọng tạo nên sự độc đáo của du
lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Nếu
người Mông, Dao sặc sỡ với váy lanh, tiếng khèn
lá, người Tày, Nùng đại diện cho văn hóa thung
lũng với sắc chàm nổi bật, của nhà sàn, cọn nước,...
thì người Cao Lan, Sán Dìu lại đại diện cho cư dân
rẻo giữa với những nương chè mướt xanh, ruộng
bậc thang uốn lượn, tiếng hát Soọng cô, Sình ca tha
thiết. Địa hình không phức tạp so với các tỉnh trung
du miền núi phía bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tỉnh Vĩnh Phúc canh tác nông, lâm, ngư nghiệp và
phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có du lịch. Cảnh
quan gò, đồi, núi cao là lợi thế cho nhiều hoạt động
du lịch trải nghiệm văn hóa và tham gia sản xuất
cùng cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Điều
kiện khí hậu vùng trung du, phù hợp với các hoạt
động du lịch, đặc biệt là hoạt động trải nghiệm sản
xuất và thực hành văn hóa. Địa hình, thổ nhưỡng,
khí hậu thích hợp cho phát triển nông nghiệp, cây
ăn quả, cây dược liệu và các làng nghề thủ công
truyền thống, đặc biệt là cây Su su ở huyện Tam
Đảo, cây Dứa ở huyện Tam Dương đã trở thành
một đặc sản của quê hương Vĩnh Phúc.
thác
và
hưởng lợi”
[Luật
Du
lịch,
hoi/Luat-du-lich-2017-322936.aspx]. Như vậy, du
lịch cộng đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng là
loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa trong đó
cộng động là người tổ chức, quản lý và cùng hưởng
lợi. Hiện nay, loại hình du lịch này đang được du
khách trong nước và quốc tế ưa chuộng, bởi nó mang
lại nhiều lợi ích thiết thực: nâng cao trình độ dân trí,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều
N.Đ.Khiem/ No.20_Mar 2021|p.47-52
Ẩm thực là thành tố phản ánh rõ nét đời sống
phải rồi dùng thắt lưng hoa lý, tím hay đỏ thắt lại.
Chiếc váy của phụ nữ Sán Dìu rất độc đáo, váy chỉ
là 2, 3, 4, hay 5, 6 mảnh vải được đính trên một xà
cạp, tạo cho mảnh nọ chờm trên mảnh kia khoảng
10cm đến 15cm, các vạt váy chồng lên nhau, tạo
nên sự kín đáo cho người phụ nữ song vẫn thuận
tiện trong lao động, leo đồi, núi. Chiếc váy lá (vang
khún), xẻ tà là điểm đặc biệt trong bộ nữ phục Sán
Dìu, do vậy, họ còn được gọi với tên gọi là Mán
váy xẻ. Đặc biệt, phụ nữ Sán Dìu có chiếc túi trầu
(loi thoi), hình múi bưởi, được may và thêu thùa
công phu, thể hiện sự khéo léo của người phụ nữ.
văn hóa của tộc người. Thông qua tập quán ăn uống
của mỗi dân tộc, có thể tìm thấy những yếu tố tín
ngưỡng, tâm linh, đạo đức, luân lý, thuần phong mỹ
tục, thị hiếu ẩm thực của dân tộc đó. Người Sán Dìu
ở Vĩnh Phúc đã sớm có nền văn minh cấy lúa nước.
Để có nước trồng lúa nước, người Sán Dìu đã đoàn
kết cùng nhau và được nhà nước đầu tư làm nhiều
công trình thủy lợi lớn như hồ Đại Lải, Xạ Hương,
đầm Sáu Vó,… với hàng ngàn ki-lô-mét kênh
mương dẫn nước về ruộng, tưới tiêu cho những
cánh cánh đồng bằng phẳng hàng trăm mẫu ở xã
Đạo Trù, Minh Quang, Hợp Châu, Đại Đình của
huyện Tam Đảo. Nguồn lương thực chủ yếu của
đồng bào dân tộc Sán Dìu là gạo, sản phẩm của nền
nông nghiệp. Đặc biệt trong cơ cấu bữa ăn của
người Sán Dìu không thể thiếu món cháo ỉ (cháo
loãng, uống thay nước, dùng hàng ngày như một
bữa phụ ngoài 2 bữa cơm chính), hay chúc líp (cháo
trộn với một số loại rau có thể dùng làm thuốc chữa
bệnh như lá lốt, lá ngải,..). Thức ăn được chế biến
phong phú từ luộc, xào, hấp, đồ, nướng, rán,.. tạo
sự tinh tế trong cách chế biến và thưởng thức món
ăn của đồng bào.
Trang phục là yếu tố đầu tiên tạo nên sự khu
biệt giữa người Sán Dìu với các cộng đồng dân tộc
khác. Tuy không sặc sỡ sắc màu, không cầu kỳ với
nhiều họa tiết thêu thùa nhưng sắc chàm chủ đạo
cùng nhiều điểm nhấn hoa văn trên nữ phục đã tạo
nên vẻ đẹp giản dị, kín đáo, duyên dáng của trang
phục Sán Dìu trên nền xanh của những đồi Su su
xanh mướt của dãy núi Tam Đảo, những đồi Dứa
vàng óng của vùng núi Tam Dương, Đạo Trù. Hệ
thống lễ hội dày đặc phản ánh đời sống tâm linh
phong phú của người Sán Dìu. Lễ hội của người
Sán Dìu được tổ chức theo các tiết trong năm. Hầu
như tháng nào đồng bào cũng có tết: tết Nguyên
đán (Sin nén chẹt phoi), tết Thanh minh (Sênh
mếnh chẹt), tết mùng 5 tháng 5 (Lống són chẹt),
rằm tháng 7 (Mộc nén ka chẹt),.. Ngoài ra, còn có
các lễ hội liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp,
gắn liền với thời vụ sản xuất như: hạ điền, thượng
điền, tết cơm mới, lễ hội Đại phan... với các biểu
hiện thờ cúng thần nông, thờ vía lúa, thờ tổ tiên,
Thành hoàng làng... phản ánh rõ nét niềm tin tâm
linh của cộng đồng các dân tộc người dân tộc Sán
Dìu ở Vĩnh Phúc.
Văn hóa ẩm thực còn thể hiện sâu sắc hơn trong
các ngày lễ tết với những món ăn đậm bản sắc dân
tộc như: thịt thính, thịt ướp chua, cheo leo (kết hợp
đọt chuối non với các nguyên liệu khác: thịt gia
súc, lươn, gà, chim,..), bánh nhân điền, bánh lá
ngải, xôi nhuộm màu, bánh tày loòng ệt, bánh
chưng gù lốc cóc chổng, bánh nép cóc phô, cày
công tạp gói bằng lá dứa dại, đan hình các con vật
gà, chim, ngựa… Với hệ thống các món ăn, cách
chế biến đa dạng, đặc sắc, ẩm thực của người Sán
Dìu không chỉ đáp ứng được nhu cầu ăn uống của
du khách còn tạo nên sự hấp dẫn đối với khách
trong việc trải nghiệm và tìm hiểu những giá trị văn
hóa tộc người như đời sống sinh hoạt, lao động sản
xuất, quan niệm tâm linh.
Người Sán Dìu có vốn văn học dân gian phong
phú. Về nhạc cụ có tù và, kèn, sáo, trống, thanh la...
Về vũ, trong các nghi lễ tôn giáo có điệu múa gậy,
nhảy dâng đèn, nhảy dọn đường, múa đua tầm xích
hay nhảy quản ma tà. Nhạc cụ và các điệu vũ được
sử dụng hầu hết trong các diễn xướng tâm linh:
tang ma, cấp sắc,… phản ánh sinh động thế giới
quan, nhân sinh quan của người Sán Dìu. Về văn
học khá phát triển trong nhân dân lao động, với loại
hình văn học dân gian chủ yếu là thơ ca ứng tác và
truyền khẩu. Bên cạnh thơ ca, còn có ca dao, tục
ngữ, câu đố cũng phong phú được đồng bào đúc rút
Trang phục nam giới Sán Dìu đơn giản, áo cánh
ngắn, quần chân què, cạp lá tọa, thích hợp với công việc
lao động nông nghiệp. Nữ phục gồm khăn đội đầu,
áo trong, áo ngoài, dây lưng, váy, xà cạp và đồ
trang sức. Cách mặc cũng có sự phân biệt về tuổi
tác, người trẻ mặc áo vạt bên phải vắt phủ lên vạt
áo bên trái, sau khi mặc chiếc nẹp bên trong được
lộn ra, tạo thành đường chéo nhau từ cổ xuống
ngực; người già mặc áo vạt trái vắt phủ lên vạt bên
N.Đ.Khiem/ No.20_Mar 2021|p.47-52
từ kinh nghiệm trong đời sống. Đồng bào cũng có
thứ đều có thể diễn ra với chiếc điện thoại di động
hay chỉ một cái nhấp chuột máy tính.
nhiều truyện thơ đặc sắc: Dựng đất mở trời (Hoi
then dịp thi), Vua cóc ở Man Cay Coóc, Slún nghi,
Món loong… Các trò chơi dân gian: đánh khăng,
đánh quay, kéo co, cà kheo... Đặc sắc nhất và
không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của
người Sán Dìu là những câu hát Soọng cô. Soọng cô
là làn điệu ca hát của người Sán Dìu, viết theo thể
thất ngôn tứ tuyệt, ghi chép bằng chữ Hán cổ và
được lưu truyền trong dân gian. Diễn xướng Soọng
cô như một hình thức sân khấu cộng đồng tái hiện rõ
nét các sinh hoạt văn hóa, phong tục tập quán, quan
niệm sống, tư duy, tình cảm của các thành viên.
Hoàn cảnh xã hội, lịch sử thay đổi, các thế hệ tiếp
nối, nhưng Soọng cô thì còn ngân mãi trong đời sống
tinh thần của cộng đồng và là môi trường bảo lưu,
trao truyền tốt nhất các giá trị văn hóa tộc người.
Những năm gần đây, số lượng khách du lịch
trong và ngoài nước đến với Vĩnh Phúc đã không
ngừng tăng lên. Lượng khách du lịch đến với Tam
Đảo năm 2019 đạt hơn 91.000 lượt người (tăng
41,5% so với cùng kỳ năm ngoái) trong đó, khách
du lịch nước ngoài đạt hơn 33.000 lượt lưu trú qua
đêm. Với phương châm nâng cao chất lượng dịch
vụ, hiện khu du lịch Tam Đảo có 125 cơ sở lưu trú,
với gần 2400 phòng, trong đó, có 50 khách sạn, 27
homestay, villa và 48 nhà nghỉ [4, tr.661-672].
Theo số liệu của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch,
năm 2017, toàn tỉnh đón 4,45 triệu lượt khách,
trong đó có 33,5 nghìn lượt khách quốc tế. Năm
2019, toàn tỉnh ước đón trên 5,9 triệu lượt khách,
trong đó có 43.100 lượt khách quốc tế. Tổng lượng
khách du lịch từ năm 2017 đến hết năm 2019 ước đạt
trên 15,5 triệu lượt người; số ngày lưu trú bình quân
khoảng 1,5 ngày. Cùng với đó, doanh thu du lịch
tăng trưởng ổn định qua các năm. Trong năm 2017,
doanh thu du lịch đạt 1.420 tỷ đồng, tăng 10,3% so
với năm 2016; năm 2019, doanh thu ước đạt 1.800 tỷ
đồng, ước tăng 11,5% so với năm 2018.
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo nhu cầu du
lịch của du khách cũng ngày phát triển dưới nhiều
hình thức khác nhau. Gần đây, xuất hiện một loại
hình du lịch mới rất thu hút được nhiều người tham
gia - du lịch cộng đồng. Thay vì chọn những nhà
nghỉ sang trọng, khách sạn cao cấp. Du khách đang
có xu hướng ở ngay tại nhà của dân địa phương để
tìm hiểu văn hóa, cuộc sống của người bản địa. Nếu
như trước đây du khách đi du lịch với mục đích
chính là tham quan, nghỉ dưỡng thông thường thì
hiện nay là nhu cầu nghỉ dưỡng chất lượng cao,
muốn tìm hiểu sâu hơn về các giá trị văn hóa và
cuộc sống bản địa với nhiều hoạt động trải nghiệm,
du khách tham gia các hoạt động nhằm phát triển
chính bản thân hay có thể nói là du lịch bước vào
thế hệ thứ 3 trong tiến trình phát triển, thế hệ của
“du lịch sáng tạo”. Trong thời đại du lịch sáng tạo,
du khách giữ vai trò chính trong các “cuộc chơi”
chứ không chỉ là những khán giả chỉ biết ngắm nhìn
vẻ đẹp của thiên nhiên, của di tích văn hóa, lịch sử
phát triển hay “tài năng” của người khác, mà khi
tham gia một hành trình du lịch nào đó, du khách
mong muốn khám phá những điều mới mẻ và tận
hưởng nó. Khách du lịch hướng tới những giá trị
mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hoá truyền
thống (tính khác biệt, đặc sắc, nguyên bản), giá trị
tự nhiên (tính nguyên sơ, độc đáo), giá trị sáng tạo
và công nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi). Nếu
một thập kỷ trước khách du lịch phải mua hoặc in
các bản đồ cho chuyến đi du lịch thì ngày nay mọi
Xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn
trong phát triển kinh tế - xã hội, Đảng Bộ Vĩnh
Phúc khẳng định: “Trong chỉ đạo phải xác định
hướng đi đúng, bước đi thích hợp, đề ra các mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn và có các
giải pháp đột phá để thực hiện. Trên cơ sở vị trí, vai
trò, mối quan hệ giữ ba khu vực kinh tế phải coi
phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn
là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, lấy phát triển công
nghiệp làm nền tảng; đẩy mạnh phát triển và từng
bước nâng cao chất lượng các lĩnh vực, trong đó lấy
phát triển kinh tế du lịch làm mũi nhọn” [2,tr.32].
Để hiện thực hóa quan điểm trên, Tỉnh ủy Vĩnh
Phúc đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đầu tư
phát triển du lịch. Ngày 06/6/2011, Ủy ban nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết định số 1335/QĐ-
UBND về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm nhìn
2030”, tiếp đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã ban
hành Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 04/11/2011 về
phát triển dịch vụ, du lịch giai đoạn 2011 - 2020 đã
xác định: “Phát triển các ngành dịch vụ, trên cơ sở
khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của mỗi ngành,
N.Đ.Khiem/ No.20_Mar 2021|p.47-52
nhà văn hóa để giao lưu văn hóa văn nghệ, khám
mỗi địa phương, trong đó, tập trung phát triển mạnh
dịch vụ du lịch, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh, ưu tiên phát triển các ngành dịch
vụ đem lại giá trị gia tăng cao, phục vụ trực tiếp
cho khu vực sản xuất; các ngành dịch vụ lợi ích
công cộng, xã hội; coi trọng và khuyến khích phát
triển các loại hình dịch vụ khác” và “Ưu tiên đầu tư
khai thác hiệu quả các sản phẩm dịch vụ, du lịch tại
các làng nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề
truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc”[7,tr.3].
Những văn bản này là kim chỉ nam định hướng cho
các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế - xã hội,
trong đó ngành du lịch là hạt nhân trong quá trình
tổ chức thực hiện nhằm khai thác tiềm năng, khắc
phục những khó khăn, hạn chế phấn đấu đưa du
lịch Vĩnh Phúc nói chung, du lịch cộng đồng nói
riêng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Để
tạo bước đột phá phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
luôn chú trọng nâng cấp, phát triển hạ tầng du lịch.
Giai đoạn 2011 - 2017, tổng số vốn ngân sách nhà
nước đầu tư cho lĩnh vực du lịch là 2.193 tỷ đồng,
trong đó đầu tư kết cấu hạ tầng trong khu du lịch là
67,1 tỷ đồng; đầu tư các công trình trọng điểm tạo
điểm nhấn phát triển du lịch là 2.126 tỷ đồng, trong
đó chi từ 35% đến 40% đầu tư các công trình du
lịch làng nghề. Bên cạnh đầu tư bằng nguồn ngân
sách nhà nước, tỉnh đã chủ động dành quỹ đất cho
các dự án du lịch để thu hút đầu tư. Từ năm 2011 -
2017, toàn tỉnh có 36 dự án DDI đầu tư vào lĩnh
vực du lịch với tổng số vốn cam kết là 20.612 tỷ
đồng, trong đó, đã thực hiện 11.336 tỷ đồng, đạt
55% số vốn cam kết.
phá ẩm thực địa phương; đầu tư hỗ trợ 60 hộ dân có
đủ điều kiện đón tiếp và phục vụ nhu cầu ăn, nghỉ
cho du khách; đào tạo nguồn nhân lực làm du lịch
cộng đồng; đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, xúc
tiến phát triển thị trường du lịch, hình thành các
tour du lịch kết nối với địa phương lân cận.
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong khai thác du
lịch cộng đồng ở tỉnh Vĩnh Phúc
Việc khai thác du lịch mang lại lợi ích cho
người dân địa phương, tăng thu nhập từ việc tham
gia các hoạt động du lịch như: phục vụ nhu cầu lưu
trú, thưởng thức các món ẩm thực độc đáo, bày bán
các đồ thủ công, biểu diễn dân ca dân vũ, trải
nghiệm sinh hoạt văn hóa gia đình, cộng đồng,…
đã góp phần ổn định đời sống kinh tế, phát triển
sinh kế và xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc
người dân tham gia trực tiếp vào các hoạt động du
lịch còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm, cải
thiện chất lượng lao động, giảm di cư tự do, tự phát
từ nông thôn ra các đô thị, tạo nên sự ổn định xã hội
và đặc biệt là sự ổn định nhân khẩu, thành phần tộc
người, nền tảng vững chắc cho sự duy trì và bảo lưu
những giá trị văn hóa tộc người.
Du lịch cộng đồng không chỉ thúc đẩy sự công
bằng trong phát triển du lịch với việc mang lại cho
cộng đồng những lợi ích từ việc cung cấp các dịch
vụ du lịch và cơ sở hạ tầng: giao thông, điện, nước,
viễn thông, vệ sinh môi trường, cảnh quan thiên
nhiên, góp phần phục hồi và phát triển các giá trị
văn hóa và nghề truyền thống mà còn đem lại nhiều
tác động tích cực về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường, tuy nhiên nếu không có các biện pháp quản
lý tốt thì nó cũng gây ra nhiều thách thức: tăng chi
phí sinh hoạt và giá đất, phá vỡ môi trường, cảnh
quan tự nhiên, ô nhiễm và rác thải, gia tăng tiếng
ồn, sự bất ổn về xã hội... Vì vậy, để hạn chế các
biểu hiện tiêu cực, chính quyền và người dân địa
phương cần làm tốt một số nội dung sau:
Tỉnh Vĩnh Phúc đã quy hoạch xây dựng Đề án
làng văn hóa du lịch cộng đồng tại thôn Đồng
Thỏng (xã Đại Đình) và thôn Đạo Trù Thượng (xã
Đạo Trù) ở huyện Tam Đảo. Đây là hai thôn có
phong cảnh thiên nhiên hữu tình và vẫn còn lưu giữ
bản sắc văn hóa phong phú của người dân tộc Sán
Dìu. Căn cứ, tiêu chí thực tiễn xây dựng đề án dựa
trên cơ sở các điều kiện tự nhiên của huyện Tam
Đảo với 44,5% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số
với truyền thống văn hóa lâu đời hiện còn lưu giữ
như tiếng nói, trang phục truyền thống, các làn điệu
dân ca, các món ăn đặc sắc,… Xây dựng khu trung
tâm đón tiếp khách du lịch, các quầy dịch vụ bán
hàng, quà lưu niệm, sản vật địa phương; xây dựng
Một là, tuyên truyền, hỗ trợ đồng bào Sán Dìu
những hiểu biết về du lịch cộng đồng, nâng cao
nhận thức để họ tham gia du lịch cộng đồng tự
nguyện, tự giác nhằm tạo nên sự kết nối giữa các
doanh nghiệp và chủ thể văn hóa để hỗ trợ đồng
bào Sán Dìu trong việc xây dựng mô hình và cách
thức đưa nguồn tài nguyên văn hóa phục vụ du lịch
cộng đồng hiệu quả.
N.Đ.Khiem/ No.20_Mar 2021|p.47-52
Hai là, đào tạo đội ngũ làm du lịch cộng đồng
REFERENCES
tại chỗ, tổ chức tập huấn để họ biết hướng dẫn và
tạo môi trường cho khách du lịch được trải nghiệm
văn hóa truyền thống như: có thể tham gia các công
đoạn của nghề thủ công, tự tạo sản phẩm lưu niệm,
sinh hoạt văn nghệ, lễ hội cùng cộng đồng,
1. Asean (2016), ASEAN Community Based
Tourism Standard - The ASEAN Secretariat Jakarta
- Indonesia, pp.41.
2. Vinh Phuc Provincial Party Committee
(2010), Document of the Congress of the Party
Committee of Vinh Phuc province, term 2010 -
2015, pp. 32. For internal circulation only.
Ba là, liên kết, học hỏi mô hình phát triển du
lịch cộng đồng ở các địa phương khác nhằm phát
huy lợi thế nguồn tài nguyên văn hóa của tộc
người. Xây dựng nhà văn hóa cộng đồng theo mô
hình một bảo tàng nhỏ giới thiệu lịch sử và những
giá trị văn hóa tộc người, đồng thời là môi trường
diễn xướng, sinh hoạt cộng đồng hay thực hành
các nghề thủ công phục vụ nhu cầu nghiên cứu,
học hỏi và trải nghiệm.
3. Harold Goodwin and Rosa Santilli (2009),
Community based tourism: a success?, IRCT
occasional paper 11, Vol.37, No.1, pp. 1 - 37.
4. Nguyen Duc Khiem (2019), Development of
traditional craft village tourism in Vinh Phuc
province. Proceedings of International Scientific
Conference: Entrepreneurship and Innovation:
Opportunities and Challenges for Vietnamese
Enterprises, Volume 2, Ha Noi Publishing House,
pp.661 - 671.
Ngoài thế mạnh về tài nguyên văn hóa, sự
thành công của du lịch cộng đồng chính là vai trò
của chủ thể văn hóa, những người trực tiếp làm du
lịch. Sự mến khách, thân tình, cởi mở, chu đáo là lý
do để níu chân du khách. Vì vậy, cần tự nhận thức
được vai trò của chính cộng đồng đối với loại hình
du lịch này. Người dân địa phương cần phải trau
dồi các kỹ năng ứng xử, giao tiếp, trình độ, năng
lực để có tham gia du lịch cộng đồng hiệu quả, bền
vững. Sự độc đáo trong bản sắc văn hóa tộc người
là thế mạnh trong khai thác du lịch cộng đồng nhằm
phát triển sinh kế tộc người Sán Dìu. Nâng cao thu
nhập cho người dân, sự tự hào về các giá trị truyền
thống là động lực tốt nhất để thúc đẩy ý thức bảo
lưu văn hóa tộc người ngay trong môi trường nó
được sinh ra và vận hành.
ban/van-hoa-xa-hoi/Luat-du-lich-2017-
322936.aspx, updated on March 28, 2020.
6. The Asia Foundation and the Vietnam Rural
Industries Research and Development Institute
(2012), CBT Development Guidelines, p.3.
7. Vinh Phuc Provincial Party Committee (2011),
Resolution No. 01-NQ/TU on development of tourism
services and tourism in Vinh Phuc province in the
period of 2011 - 2020, p.3.
3. Kết luận
Để phát triển du lịch cộng đồng bền vững, hiệu
quả đảm bảo sinh kế cho người dân tộc Sán Dìu,
góp phần tích cực vào xóa đói giảm nghèo, Vĩnh
Phúc cần: nâng cấp hạ tầng cơ sở, chú trọng đến
các điểm, các làng bản nằm trên tour, tuyến du lịch
chính của tỉnh; đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho
phát triển du lịch, đặc biệt là đội ngũ thuyết minh
và nhân viên phục vụ tại các thôn bản; nâng cao
nhận thức cho đồng bào dân tộc Sán Dìu thông qua
việc hỗ trợ, tập huấn kỹ năng giao tiếp, thành lập
các đội văn nghệ tại thôn, bản, s n sàng biểu diễn
phục vụ du khách; giữ gìn và phục hồi các nét văn
hóa đặc sắc của mỗi dân tộc, góp phần tạo việc làm,
tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.
N.Đ.Khiem/ No.20_Mar 2021|p.47-52
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển du lịch cộng đồng nhằm giải quyết việc làm và đảm bảo sinh kế cho người dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phat_trien_du_lich_cong_dong_nham_giai_quyet_viec_lam_va_dam.pdf