Báo cáo hội thảo Quản lý và vận hành hệ thống giao thông công cộng Hà Nội

BÁO CÁO HỘI THẢO NGÀY 19.11.2012  
QUẢN LÝ VÀ VẬN HÀNH  
HỆ THỐNG GIAO THÔNG  
CÔNG CỘNG HÀ NỘI  
LỜI CÁM ƠN  
Chúng tôi xin gửi lời cám ơn các quý vị sau đây đã tham gia hội thảo:  
Ông Nguyễn Quang Mạnh, Giám đốc Ban quản lý dựán đường sắt Hà Nội MRB  
Ông Grégory CLEMENTE, Giám đốc Văn phòng châu Á của Cơ quan Phát triển Pháp AFD  
Ông Bernard RIVALTA, Chủ tịch Nghiệp đoàn ngành giao thông Thành phố Lyon SYTRAL  
Bà Véronique HAMAYON, Tổng thư ký Nghiệp đoàn ngành giao thông vùng Île-de-France STIF  
Ông Thierry MOCQUIAUX, Giám đốc dựán liên doanh Véolia Transdev-RATP Asia (VTRA)  
Ông Emmanuel VIVANT, Giám đốc dựán tàu điện tại Hồng Kông của liên doanh Véolia Trandev-RATP Asia  
(VTRA)  
Chúng tôi xin gửi lời cám ơn các quý vị sau đây đã hỗ trợ cho công tác tổ chức hội thảo :  
Ông Jean-Claude PIRES, Phó giám đốc AFD Hà Nội  
Ông Kamel BOUHMAD, Phụ trách dựán AFD Hà Nội  
Bà Fanny QUERTAMP, Đồng giám đốc Trung tâm thăm dò và nghiên cứu đô thị TP HCM PADDI  
Ông Jean-Claude GAILLOT, Phó tổng giám đốc Đơn vị quy hoạch bền vững UnitéAménagement durable,vùng  
Île-de-France  
Ông Emmanuel CERISE, Đồng giám đốc IMV Hà Nội  
Ông Yann MAUBLANC, Phụ trách nghiên cứu giao thông tại IMV Hà Nội  
Người lập báo cáo :  
Ông Julien ALLAIRE, Đại diện ủy quyền của CODATU  
Với sự giúp đỡ của :  
Ông Jean-Michel CUSSET, Chuyên gia giao thông đô thị các nước đang phát triển  
Ông Charles SIMON, Phụ trách nghiên cứu tại CODATU  
Các phân tích và kết luận đưa ra trong báo cáo này là của nhóm biên soạn.  
Đây không nhất thiết là quan điểm của Cơ quan Phát triển Pháp AFD và các cơ quan đối tác.  
3
TÊN VIẾT TẮT  
ADB : Ngân hàng Phát triển châu Á  
AFD : Cơ quan phát triển Pháp  
AOT : Cơ quan tổ chức mạng lưới giao thông  
BEI : Ngân hàng đầu tư châu Âu  
BRT : Xe buýt nhanh  
CPH : UBND thành phố Hà Nội  
IMV Hanoï : Viện nghiên cứu đô thị Hà Nội  
JICA : Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản  
LRT : Đường sắt trên cao  
MOT : Bộ giao thông  
MRB : Ban quản lý dựán đường sắt Hà Nội  
MRT : Dựán tàu điện ngầm  
PADDI : Trung tâm thăm dò và nghiên cứu đô thị TP HCM  
PCC : Phòng điều hành trung tâm  
PDUIF : Sơ đồ quy hoạch giao thông đô thị vùng Île-de-France  
PPP : Đối tác công-tư  
RER : Mạng lưới đường sắt liên vùng  
STIF : Nghiệp đoàn ngành giao thông vùng Île-de-France  
SYTRAL : Nghiệp đoàn ngành giao thông thành phố Lyon  
TRAMOC : Trung tâm vận hành và quản lý giao thông  
VNRA : Tổng cục đường sắt Việt Nam  
VTRA : Liên doanh Veolia Transdev-Ratp Asia  
4
MỤC LỤC  
LỜI CÁM ƠN  
TÊN VIẾT TẮT  
MỤC LỤC  
3
4
5
6
LỜI NÓI ĐẦU  
I - THÁCH THỨC TRONG VIÊC TÍCH HỢP CÁC MẠNG LƯỚI GIAO THÔNG  
Ba cấp độ hành động : chiến lược, chiến thuật và thực hiện  
II - CẤP ĐÔ CHIẾN LƯỢC : CHÍNH SÁCH GIAO THÔNG CỦA TP HÀ NÔI  
Tổ chức đất đai và hành chính  
7
7
9
9
Giao thông đô thị : thách thức lớn đối với TP Hà Nội  
Chủ trương phát triển mạng lưới giao thông công cộng  
Khung 1 : chính sách giao thông vùng Île-de-France  
III - CẤP ĐÔ CHIẾN THUẬT : CƠ QUAN TỔ CHỨC MẠNG LƯỚI GIAO THÔNG  
Các vấn đề cốt yếu để thành lập một cơ quan tổ chức mạng lưới giao thông  
Mô hình nào cho cơ quan tổ chức mạng lưới giao thông AOT cho Hà Nội ?  
Khung 2 : vận hành của STIF  
9
10  
13  
14  
14  
16  
19  
21  
23  
23  
26  
28  
29  
30  
31  
32  
33  
33  
33  
34  
34  
34  
Khung 3 : vận hành của SYTRAL  
IV - CẤP ĐÔ THỰC HIÊN : CÁC CÔNG TY KHAI THÁC MẠNG LƯỚI GIAO THÔNG  
Hoạt động nào thuộc thẩm quyền của công ty vận hành ?  
Khung 4 : ủy quyền dịch vụ công tại TP Lyon  
Khung 5 : tuyến số 9, tàu điện ngầm TP Séoul  
Khung 6 : khai thác tàu điện tại Hồng Kông  
Khung 7 : khai thác một tuyến tàu điện ngầm tại TP Paris  
KẾT LUẬN  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
BAN TỔ CHỨC  
Cơ quan phát triển Pháp AFD  
CODATU  
CÁC ĐỐI TÁC  
IMV, Viện nghiên cứu đô thị Hà Nội  
PADDI, Trung tâm thăm dò và nghiên cứu đô thị TP HCM  
5
LỜI NÓI ĐẦU  
Hội thảo « Quản lý và vận hành hệ thống giao thông công cộng Hà Nội » đã được tổ chức ngày 19 tháng 12  
năm 2012 tại Hà Nội.  
Cơ quan phát triển Pháp AFD đã bày tỏmong muốn  
tổ chức hội thảo này nhằm hỗtrợ cho UBND thành  
phố Hà Nội trong việc lựa chọn hệ thống vận hành  
đảm bảo sựkết nối nhất quán cho toàn bộ mạng lưới  
giao thông công cộng của thủ đô. Hội thảo được  
tổ chức với mục đích trao đổi các định hướng xây  
dựng mạng lưới giao thông tương lai của thủ đô trên  
cơ sở phân tích kinh nghiệm của một số dự án thực  
hiện ở Pháp và một số nước Đông Á.  
vùng thủ đô Paris và quản lý mạng lưới giao thông  
của TP Paris.  
Chủ đề tổ chức và quản lý các mạng lưới giao thông  
công cộng cũng được đề cập đến dưới góc nhìn của  
các công ty vận hành khai thác, qua bài trình bày  
của ông Thierry MOCQUIAUX, Giám đốc dự án  
thuộc RATP với chủ đề khai thác vận hành mạng  
lưới giao thông Paris, và một bài trình bày thứ hai  
của ông Emmanuel VIVANT, giám đốc dự án tàu  
điện Hồng Kong với nội dung chia sẻ kinh nghiệm  
của dự án liên doanh Véolia Transdev-RATP Asia  
(VTRA) triển khai tại Séoul và Hồng Kông. Giám  
đốc Ban quản lý dự án đường sắt đô thị Hà Nội  
Nguyễn Quang Mạnh đã kết luận hội thảo với nội  
dung trình bày các quy hoạch tổng thể của Hà Nội và  
cám ơn các đại biểu đã có bài trình bày. Ông Mạnh  
cũng đã nhấn mạnh Hà Nội cần phải xây dựng một  
hệ thống quản lý mạng lưới giao thông công cộng để  
tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận hành các tuyến  
tàu điện ngầm cũng như thực hiện mục tiêu dài hạn  
là tích hợp thành một hệ thống giao thông công cộng  
đa phương tiện.  
Phiên khai mạc hội thảo đã có sự tham dự của ông  
Nguyễn Quang Mạnh, tổng giám đốc ban quản lý  
dự án đường sắt đô thị Hà Nội, ông Grégory CLE-  
MENTE, Giám đốc văn phòng châu Á của AFD. Bài  
báo cáo đầu tiên mở đầu cho nội dung thảo luận do  
ông Julien ALLAIRE, đại diện ủy quyền của CO-  
DATU trình bày, có nội dung giới thiệu hệ thống  
giao thông đô thị và tổ chức quản lý giao thông đô  
thị tại Hà Nội.  
Tiếp đó các đại biểu tham dự hội thảo đã nghe hai  
bài trình bày của đại diện hai Cơ quan tổ chức giao  
thông của Pháp. Ông Bernard RIVALTA, Chủ tich  
nghiệp đoàn ngành giao thông TP Lyon (SYTRAL)  
đã giới thiệu tổ chức quản lý mạng lưới giao thông  
thành phố Lyon và thỏa thuận ủy quyền khai thác  
dịch vụ công giữa cơ quan quản lý và công ty vận  
hành hệ thống giao thông công cộng của thành phố.  
Bà Véronique HAMAYON, Tổng thư ký Nghiệp  
đoàn ngành giao thông vùng Île-de-France (STIF),  
đã có bài giới thiệu tình hình tổ chức giao thông tại  
6
I - THÁCH THỨC TRONG VIỆC TÍCH  
HỢP CÁC MẠNG LƯỚI GIAO THÔNG  
Việc tích hợp các phương tiện giao thông trong một mạng lưới thống nhất nhằm làm tăng mức độhấp dẫn của  
dịch vụ giao thông công cộng so với các phương tiện giao thông cá nhân. Một hệ thống giao thông thống nhất  
được tích hợp tốt chắc chắn sẽ thu hút được nhiều hành khách cùng một lúc, vì dễ sử dụng và dễ tiếp cận, hơn  
nữa tích hợp tốt sẽ giúp giúp ngắn thời gian chuyển từ phương tiện này sang phương tiện khác. Tích hợp các  
mạng lưới giao thông sẽ là chìa khóa thành công của chính sách giao thông công cộng đa phương tiện.  
Đối với hành khách, việc mạng lưới giao thông  
đa phương tiện được tích hợp tốt sẽ giúp họ nắm  
được giờ giấc, giá vé và thông tin tốt hơn, cũng như  
biết được việc quy hoạch tổ chức liên mạng lưới  
được thực hiện ở ga, bến nào để giúp việc chuyển  
từ phương tiện này sang phương tiện khác, từtuyến  
này sang tuyến khác được thực hiện một cách dễ  
dàng.  
• Mạng lưới sẽ được tích hợp và/hoặc phối hợp ở  
mức độ nào ở cấp các cơ qaun quản lý ?  
Hiện tại liệu đã có thể giao nhiệm vụ quản lý hệ thống  
xe buýt và tàu điện ngầm cho một cơ quan duy nhất  
hay chưa ? Cơ quan này liệu có thẩm quyền quản lý  
đối với tất cả các tuyến di chuyển hay không ?  
• Hiện tại các vấn đề nào đang ở giai đoạn nghiên  
cứu cần phải được điều phối ? Hệ thống quy chuẩn  
nào cần phải được áp dụng ? Quản lý như thế nào  
đối với các dự án xây dựng do các nhà đầu tư khác  
nhau phụ trách?  
Đối với những người trong ngành, tích hợp mạng  
lưới sẽ đảm bảo quản lý tốt hơn về tài chính đối với  
chi phí vận hành. Một mạng lưới giao thông công  
cộng có đủ độ hấp dẫn sẽ thu hút được nhiều hành  
khách, đồng thời vẫn đảm bảo được khả năng phối  
kết hợp và tiết kiệm chi phí.  
• Đâu sẽ là phương thức khai thác và bảo trì bảo  
dưỡng cho hệ thống tàu điện ngầm ? Việc có nhiều  
công ty khai thác khác nhau có ảnh hưởng đến sự  
cân bằng tài chính hay không ? Có cần phải tổ chức  
tập trung các phòng điều khiển trung tâm (PCC) cho  
mạng lưới đường sắt đô thị ?  
Trong trường hợp các phương tiện không được tích  
hợp trong một mạng lưới thống nhất, kể cả về« hạ  
tầng » (ga trung chuyển), « hệ thống » (vé) hoặc «  
tài chính » (biểu phí), sẽ có sự cạnh tranh lẫn nhau  
giữa các loại hình phương tiện vận tải. Trong trường  
hợp đó, kết quả khai thác của mỗi một doanh nghiệp  
phụ trách vận hành một loại hình phương tiện sẽ bị  
đe dọa trực tiếp. Do vậy, tích hợp mạng lưới cũng  
chính là đảm bảo hiệu quả kinh tế.  
• Sẽ tích hợp giá vé ở mức độ nào ? Áp dụng công  
nghệ vé nào ?  
Tùy theo tình hình thực tế tại địa phương, việc đảm  
bảo quy hoạch thống nhất hệ thống giao thông có  
thể được thực hiện bằng cách tổ chức thống nhất  
các cơ quan quản lý, điều phối các đơn vị có liên  
quan hoặc ủy quyền. Ba khả năng này có thể được  
áp dụng ở nhiều cấp độ khác nhau.  
Năm 2012, trước tình hình phát triển các dự án giao  
thông công cộng (tàu điện ngầm và xe buýt), chính  
quyền thủ đô Hà Nội đã và đang có các lựa chọn sẽ  
có ảnh hưởng lớn tới việc quy hoạch tích hợp mạng  
lưới giao thông thành phố từ nay đến năm 2020.  
Hiện tại đã có nhiều câu hỏi được đặt ra :  
7
CẤP CHIẾN LƯỢC  
Xây dựng chính sách và các mục tiêu hướng tới  
Chúng ta mong muốn thực hiện những gì? Với nguồn lực nào ?  
(phạm vi lãnh thổ được phục vụ, mức độ hỗ trợ, mức độ tiếp cận,  
đặc điểm chung của dịch vụ)  
CẤP CHIẾN THUẬT  
Xácđịnh nội dung cụ thể của các giải phápcần đưa ra để đạt đượcmục tiêu:  
Cần pháttriển dịch vụ nào để đạt đượcmục tiêu này? Làm thế nào?  
Tính phí, tuyến, phương thức, giờ chạy, loại dịch vụ  
CẤP THỰC HIỆN  
Phát triển các phương tiện phù hợp để đảm bảo sản xuất dịch vụ  
Làm thế nào để sản xuất dịch vụ một cách hiệu quả ?  
Quản lý phương tiện, bảo trì, quản lý nhân sự  
thay mới đội xe, v.v.  
Hình 1: Sơ đồ các cấp hành động trong tổ chức mạng lưới giao thông công cộng  
Ba cấp độ hành động : chiến lược, chiến  
thuật và thực hiện  
này có thể kêu gọi sự tham gia của các đối tác để xây  
dựng khung kế hoạch cụ thể.  
Để dễ hình dung, chúng tôi xin trình bày tổ chức  
mạng lưới giao thông ở ba cấp độ : cấp chiến lược,  
cấp chiến thuật và cấp thực hiện  
Cuối cùng, cấp thực hiện chịu trách nhiệm phát triển  
tất cả các phương tiện phù hợp để đáp ứng nhu cầu  
đã được xác định ở cấp chiến thuật. Ở cấp này, cần  
phải đưa vào cung cấp các dịch vụ giao thông công  
cộng hiệu quả nhất có thể. Công ty khai thác dịch vụ  
vận tải, dù của nhà nước hay tư nhân phải chịu trách  
nhiệm về các vấn đề quản lý nhân sự, đội xe/tàu,  
bảo dưỡng bảo trì hạ tầng, v.v.  
Tích hợp mạng lưới  
đồng nghĩa với hiệu  
quả kinh tế.  
Ba cấp độ hành động này tương ứng với ba mức  
thời gian khác nhau, có thể giao cho các cơ quan  
chuyên trách. Các tác nhân có liên quan cũng có thể  
đàm phán nhằm tối ưu hóa hiệu quả của việc thực  
hiện các chính sách lớn về giao thông đã đề ra.  
Theo sơ đồ trên, cấp chiến lược sẽ chịu trách nhiệm  
về dài hạn (trên 10 năm). Ở cấp này, các nhà lãnh  
đạo đề ra các chính sách về giao thông cũng như  
các mục tiêu cần đạt được về phạm vi lãnh thổđược  
phục vụ, phân bổ các phương thức dịch vụ, các đối  
tượng người dân được nhắm tới, mức độtrợ giá, các  
nguồn lực cần đầu tư.  
Ngoài những người chịu trách nhiệm trong việc đề  
ra chiến lược phát triển đô thị và chính sách giao  
thông đi kèm, còn có hai tác nhân khác cũng tham  
gia vào quy trình này : Cơ quan tổ chức giao thô-  
ng(AOT) và các công ty vận hành khai thác.  
Ngược lại cấp chiến thuật sẽ chịu trách nhiệm về  
tầm nhìn trung hạn (5-10 năm). Ở cấp này, việc  
cầm làm là xác định đặc điểm của các dịch vụ cần  
cung cấp, để có thể đáp ứng được các mục tiêu đề  
ra ởcấp chiến lược. Cần phải có kế hoạch chi tiết  
các phương thức giao thông được đưa vào phục vụ,  
các loại bản đồ mạng lưới giao thông, biểu phí, giờ  
giấc, tần suất các chuyến và loại hình dịch vụ đưa  
vào phục vụ. Cấp độ này chủ yếu thuộc trách nhiệm  
của cơ quan quản lý hành chính. Tuy nhiên, cơ quan  
Trước tiên, chúng tôi sẽ phân tích vai trò của Cơ  
quan tổ chức giao thông, vì cần thiết phải dần dần  
xây dựng một cơ quan như vậy cho mạng lưới giao  
thông đô thị, tiếp đó chúng tôi sẽ nhắc đến vai trò  
mà AOT có thể giao phó cho các công ty, đơn vị vận  
hành, khai thác.  
8
II - CẤP CHIẾN LƯỢC:  
CHÍNH SÁCH GIAO THÔNG CỦA HÀ NỘI  
Tổ chức đất đai và hành chính  
Giao thông đô thị : thách thức lớn cho  
thành phố Hà Nội  
Thành phố Hà Nội hiện có 6,2 triệu dân (trong đó  
2,6 người sinh sống ở các quận nội thành) trong khi  
đó TP HCM có dân số là 9 triệu người. Hiện nay, hai  
thành phố lớn này đều đang phải chịu áp lực lớn về  
gia tăng dân số, chủ yếu là tăng dân số cơ học do lao  
động nhập cư từ các tỉnh đổ về , hiện lao động ngoại  
tỉnh chiếm tới hơn 10 % dân số của TP HCM.  
Hiện nay, cả hai thành phố lớn của Việt Nam đều  
phải đau đầu với tình trạng tắc nghẽn giao thông  
ngày càng gia tăng. Đảm bao giao thông đi lại thông  
suốt cho người dân hiện đang là những vấn đềưu  
tiên hàng đầu của Việt Nam.  
Cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho người dân đô thị  
đang là một trong những vấn đề đau đầu hiện nay  
của Việt Nam. Đảm bảo cung cấp chỗ ở chất lượng  
dịch vụ nước sạch và xử lý nước thải, thu gom và  
xử lý rác thải, v.v. là những thách thức lớn đối với  
các cơ quan quản lý cả ở địa phương và trung ương.  
Trong số các dịch vụ cơ bản đó, quản lý và cung cấp  
các dịch vụ giao thông vẫn là thách thức hàng đầu.  
Ngày 01 tháng 08 năm 2008, Quốc hội Việt Nam đã  
thông qua việc mở rộng địa giới hành chính thủđô  
và sáp nhập tỉnh Hà Tây vào Hà Nội. Do vậy, tổng  
diện tích của Hà Nội đã tăng gấp ba lần, dân sốtăng  
gấp hai lần. Trước khi sáp nhập, dân số Hà Nội là  
3,4 triệu người, diện tích 985 km2; sau khi mởrộng,  
thành phố có 6,2 triệu người với tổng diện tích là  
3330 km2.  
Hình 2: Cơ giới hóa phương tiện giao thông ởVN(1996-2007)  
Nếu như trong những năm 1980 người dân Hà Nội  
chủ yếu đi lại bằng các phương tiện cá nhân thô sơ,  
chủ yếu là xe đạp, và phương tiện giao thông công  
cộng (với nhiều đường tàu điện), sau khi mở cửa  
kinh tế năm 1986 (sau Đổi mới), số lượng phương  
tiện cơ giới hóa hai bánh tăng lên theo cấp sốnhân.  
Hiện nay, việc đi lại bằng xe máy đã ăn sâu vào thói  
quen của người dân. Loại phương tiện này vừa rẻ  
đối với đa số người dân Việt Nam, và rất phù hợp  
với địa hình đô thị với quy hoạch chủ yếu là các con  
phố nhỏ.  
Hiện tại Hà Nội là một trong 5 thành phố trực thuộc  
trung ương. Thành phố do UBND quản lý, đây là  
cơ quan hành pháp đại diện cho HĐND thành phố.  
Chủ tịch UBND thành phố do HĐND chỉ định, có  
9nhiệm kỳ 4 năm. Về đơn vị hành chính, TP có 10  
quận nội thành, 18 huyện ngoại thành. Việc diện tích  
TP tăng gấp 3 lần đã có nhiều tác động về mặt giao  
thông, đặc biệt là trong việc đảm bảo cung cấp dịch  
vụ đi lại từ trung tâm thành phố tới Hà Đông, là  
trung tâm của tỉnh Hà Tây cũ.  
Năm 2009, cả Hà Nội có 3,7 triệu xe máy, tương  
đương 600 xe/1000 dân. Năm 2010, xe máy chiếm  
tới 78 % tổng số các phương tiện. Tình trạng này  
gây ra nhiều khó khăn cho quản lý giao thông. Về  
an toàn giao thông, cũng có nhiều hậu quả nghiêm  
trọng. Năm 2006, tổng cộng có tới 1000 vụ tai nạn  
giao thông, làm chết 500 người và bị thương 700  
9
người1. Tai nạn giao thông xảy ra chủ yếu ở các trục  
đường lớn từ ngoài thành vào trung tâm Hà Nội, nơi  
xe cộ luôn chạy với tốc độ cao.  
Hơn nữa, giao thông cũng là thủ phạm chính của  
gần như toàn bộ lượng khí N02 thải ra môi trường  
tại Hà Nội. Hàm lượng các phân tử lơ lửng (PM10)  
trong không khí thường vượt quá gấp 2 lần mức cho  
phép. Theo báo cáo Global Environmental Outlook  
của chương trình môi trường LHQ UNEP công bố  
năm 2007, Hà Nội và TP HCM nằm trong số 6 thành  
phố có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất thế giới.  
Xe đạp  
Các phương  
tiện CC khác  
Xe buýt CC  
Ô tô cá nhân  
Xe máy  
Hình 3 : tỷ lệ các phương tiện cơ giới tại Hà Nội(Nguồn: TRAMOC 2002,  
Molt C. 2010)  
Ủy ban Nhân dân  
Trên hình 3, có thể thấy, năm 2010, giao thông công  
cộng chiếm 10 % trong số các phương tiện cơ giới  
hóa(cũng phải lưu ý là người dân Hà Nội ít đi bộ)3.  
Như vậy, mục tiêu đặt ra là tăng tỷ lệ giao thông  
công cộng lên gấp ba lần. Ngay từ đầu năm 2000,  
UBND TP Hà Nội đã chủtrương tập trung vào phát  
triển mạng lưới giao thông công cộng.  
thành phố Hà Nội chủ  
trương phát triển giao  
thông công cộng  
Nhờ đó mạng lưới xe buýt đã có sựphát triển vượt  
bậc :  
Một vấn đề khác đối với chính quyền thành phố là  
số lượng ô tô lưu thông tăng lên trong những năm  
gần đây. Mặc dù các nhà lãnh đạo đều có chính sách  
hạn chế nhập khẩu ô tô thông qua các biện pháp tăng  
thuế, số lượng ô tô được đưa vào lưu thông vẫn tăng  
khoảng 13 %/năm. Đây cũng là một xu hướng đáng  
báo động, vì nó vừa làm tăng tình trạng tắc nghẽn,  
vừa làm tăng số vụ tai nạn giao thông. Xu hướng  
này cũng khiến cho tình hình giao thông của thủ đô  
ngày càng trở nên hỗn loạn.  
• Ba tuyến «thí điểm» đã được đưa vào khai thác với  
sự hỗ trợ của Vùng Île-de-France và từ hỗ trợ trong  
dự án hợp tác với Đức trong khuôn khổ chương  
trình châu Âu Asia trans.  
• Một cơ quan quản lý giao thông – TRAMOC – đã  
được thành lập.  
• Phần lớn các công ty xe buýt đều đã nhóm chung  
vào công ty TRANSERCO.  
• Mô hình quản lý gần giống với mô hình AOT/  
công ty khai thác của châu Âu. Nhà nước trợ giá rất  
nhiều, các khoản trợ giá đều tăng hàng năm.  
Chủ trương phát triển giao thông công  
cộng  
Cơ quan tổ chức giao thôngTRAMOC và các công  
ty khai thác xe buýt đã tăng mạnh nguồn cung dịch  
vụ, thông qua việc tăng thêm sốtuyến, tổ chức lại  
mạng lưới, tăng sốchuyến và phạm vi phục vụ, tổ  
chức lại các tuyến theo các trung tâm và khu đô thị  
mới được xây dựng, v.v.Chất lượng cung dịch vụ,  
giá vé, thông tin hành khách cũng đã được cải thiện.  
Qua đó, số lượng hành khách sử dụng xe buýt đã  
tăng một cách ấn tượng. Số lượng hành khách đã  
tăng 30 lần trong vòng 8 năm, từ 12 triệu lượt năm  
2000 lên hơn 400 triệu lượt năm 20094.  
Sự phát triển tuyệt vời của hệ thống xe buýt  
Năm 2006, chính phủ liên tục đưa ra các mục tiêu  
phát triển mạng lưới giao thông trong đó chủtrương  
ưu tiên phát triển giao thông công cộng. Mục tiêu  
đầu tiên mà chính phủ đưa ra là giao thông công  
cộng phải chiếm 50% vào năm 2020. Sau đó mục  
tiêu này đã được điều chỉnh giảm xuống còn 30 %  
vào những năm tiếp theo2.  
3
Gaillot J-C. (2012), Hà Nội, bối cảnh và thách thức về giao thông đi  
lại ở thành phố thủ đô của Việt Nam  
1
Nhân tổ chức năm an toàn giao thông 2012, chủ tịch UBND TP Hà  
4
Gaillot J-C. (2012), Hà Nội, bối cảnh và thách thức về giao thông đi  
Nội Nguyễn Thế Thảo cho biết, mục tiêu của thành phố là giảm 10%  
số vụ tai nạn giao thông, số ca thương vong và giảm 20% số vụ tắc  
nghẽn giao thông...  
lại ở thành phố thủ đô của Việt Nam  
2
Nguyễn Thị Thanh Hương (2011)  
10  
Tuyến métro n°2 : Nội Bài – Trung tâm TP –  
Thượng Đình (35,2 km trong đó 17 km sẽ được  
xây dựng trong giai đoạn 1) :  
Biến thiên về số lượng hành khách và dịch vụ do  
mạng lưới xe buýt Hà Nội cung cấp  
Hành khách  
(triệu)  
Tuyến  
Tuyến này sẽ đưa vào phục vụ năm 2018. Chủ đầu  
tư của dự án này là Ban quản lý dự án đường sắt đô  
thị Hà Nội MRB, với nguồn vốn từ JICA.  
Tuyến métro n°2a : Cát Linh – Thượng Đình –  
Ba La (14 km) :  
Đây sẽ là tuyến đầu tiên được đưa vào vận hành, dự  
tính vào năm 2014. Chủ đầu tư là Bộ Giao thông vận  
tải MOT, với nguồn vốn vay từ Trung Quốc.  
Số lượng hành khách  
Số tuyến  
Tuyến métro n°3 : Nhổn – Ga Hà Nội – Hòang  
Mai (21 km trong đó 12,5 km sẽ được xây dựng  
trong giai đoạn 1) :  
Hình 4 : biến động lượng hành khách và cung dịch vụ của hệ thống  
xe buýt Hà Nội  
Chủ đầu tư của dự án này là HRB, tuyến này sẽ  
chính thức vận hành vào năm, với nguồn vốn từcác  
đối tác Pháp (AFD và DG Trésor) và các đối tác của  
hai cơ quan này là Ngân hàng đầu tư châu Âu (BEI)  
và ADB.  
Các dự án giao thông công cộng trọng điểm  
Quy hoạch tổng thể giao thông đô thị Hà Nội đến  
năm 2020 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt  
vào tháng 7 năm 2008 (theo quyết định số 90/2088/  
QD-TTg). Bản quy hoạch này đưa ra khung chiến  
lược cho phát triển giao thông thành phố Hà Nội và  
dự trù thực hiện nhiều tuyến giao thông công cộng  
trọng điểm : métros (MRT), tàu nhẹ hoặc tàu điện  
(LRT) và xe buýt nhanh (BRT). Bản quy hoạch này  
còn được bổ sung thêm bằng các nội dung trong Quy  
hoạch tổng thể và phát triển đô thị thành phố Hà Nội  
đến năm 2030, tầm nhìn 2050 đã được chính phủ  
phê duyệt vào tháng 7 năm 2011.  
Tuyến métro n°5 : Hồ Tây – Ngọc Khánh –  
Láng – Hòa Lạc :  
Chủ đầu tư của tuyến này là Bộ GTVT (MOT). Hiện  
dự án đang trong giai đoạn nghiên cứu, với hình thức  
đầu tư PPP từ nguồn vốn Nhật Bản.  
Tuyến BRT : Ba La – Láng Hạ – Kim Mã (13  
km) :  
Tuyến này dự kiến được đưa vào phục vụ vào năm  
2014. Chủ đầu tư là Sở giao thông Hà Nội, với  
nguồn vốn từ WB.  
Quy hoạch tổng thể giao thông đô thị Hà Nội đặt mục  
tiêu thực hiện nhiều dự án lớn : 8 tuyến métro(MRT)  
với tổng chiều dài hơn 160 km, khoảng 130 ga và  
25 km đường BRT. Toàn bộ các dự án này sẽphải  
hoàn thành và đưa vào phục vụ năm 2030. Năm dự  
án trong số đó đã được khởi công hoặc đang trong  
giai đoạn nghiên cứu khả thi, các dự án này sẽ phải  
được đưa vào hoạt động trong khoảng từnăm 2014  
đến năm 2020 (xem hình 5).  
Việc thực hiện nhiều dự án một lúc với sự tham gia  
của nhiều cơ quan khác nhau và vốn từ nhiều nguồn  
khác nhau như vậy là một thách thức lớn trong việc  
làm sao phải đảm bảo kết nối thống nhất các tuyến  
này trong cùng một mạng lưới. Nhiều kế hoạch đã  
được đề xuất, nhất là cho mảng khai thác và bảo  
trì bảo dưỡng các tuyến métro và LRT. Hội thảo đã  
giới thiệu các thách thức liên quan đến tổ chức mạng  
lưới giao thông, với sự chia sẻ kinh nghiệm từ các  
đồng nghiệp nước ngoài.  
Các dự án này do các chủ đầu tư khác nhau thực  
hiện, cùng với đối tác là các cơ quan tài trợ vốn  
quốc tế.  
Tuyến métro n°1 : Ngọc Hồi – Yên Viên, Như  
Quỳnh (38,7 km trong đó 10 km sẽ được xây  
dựng trong giai đoạn 1) :  
Tuyến này sẽ vận hành vào năm 2018. Chủ đầu  
tư của dự án này là Tổng cục đường sắt Việt Nam  
(VNRA), với nguồn vốn từ Cơ quan hợp tác quốc  
tế Nhật Bản JICA.  
11  
Hình 5 : Các dự án giao thông công cộng trọng điểm của Hà Nội đến năm 2020  
12  
Chính sách đi lại do STIF xây dựng được đề ra  
trong Kế hoạch giao thông đi lại cho vùng Île-de-  
France(PDUIF). Bản Kể hoạch PDUIF này đưa ra  
chương trình tổ chức giao thông đi lại, ở cấp vùng  
từ nay đến năm 2020. Tất cả các loại hình giao thô-  
ng đi lại, vận tải hàng hóa và hành khác đều được đề  
cập đến trong bản Kế hoạch này : đi bộ, xe đạp, giao  
thông công cộng, ô tô cá nhân, v.v. Theo đó, trên cơ  
sở nhu cầu đi lại nói chung được dự báo sẽ tăng 7  
%, bản Kế hoạch đề ra mục tiêu tăng nhu cầu đi lại  
bằng các phương tiện giao thông công cộng khoảng  
20 %, đi bộ và xe đạp tăng 10 % và giảm 2 % nhu  
cầu đi lại bằng ô tô cá nhân và xe máy. Mục tiêu tổng  
quát là giảm 20 % lượng khí thải gây hiệu ứng nhà  
kính từ giao thông từ nay đến năm 2020.  
Khung 1 :  
chính sách giao thông  
vùng Île-de-France  
Vùng Île-de-France có dân số 11,6 triệu người và  
6 triệu việc làm. Toàn vùng đóng góp 29 % GDP  
và tập trung khoảng 22,5 % lực lượng lao động của  
cả nước, tổng diện tích là 12 000 km². Mỗi ngày có  
khoảng 41 triệu lượt đi lại trong toàn vùng. Trung  
bình, một người dân di chuyển khoảng 3,9lượt/ngày  
(trong tuần). Chiều dài trung bình của mỗi lượt là  
4,4 km. 39% số lượt di chuyển của người dân là  
đi bộ, 38 % bằng ô tô cá nhân, và 20% bằng các  
phương tiện giao thông công cộng. Gần 8,3 triệu  
lượt đi lại mỗi ngày là bằng các phương tiện công  
cộng. Tức là tăng thêm 1,5 triệu lượt so với năm  
2001, đạt mức tăng trưởng 21 %. Nhìn chung, chiều  
dài của các lượt di chuyển bằng các phương tiện  
giao thông công cộng là rất lớn : từ 8,7 km năm  
2001 lên 9 km en 20101. Tuy nhiên, đây chỉ là con số  
trung bình, trên thực tế thì có nhiều mức độ chênh  
lệch khác nhau tùy theo vùng.  
Để thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ sử dụng các phương  
tiện công cộng, STIF đã đặt ra mục tiêu tăng lượng  
dịch vụ cung cấp thêm 25 % từ nay đến năm 2020.  
STIF mong muốn tạo thuận lợi cho việc sửdụng các  
phương tiện công cộng cho tất cả các hành khách,  
và đặc biệt là cải thiện việc kết nối các phương tiện  
trong mạng lưới. Với các mục tiêu như vậy, STIF dự  
trù tăng ngân sách hoạt động lên thêm 35 %.  
1
Tổng điều tra giao thông : http://www.stif.info/IMG/pdf/Enquete_  
globale_transport_BD-2.pdf  
Thay đổi điều kiện đi lại  
Thay đổi hành vi  
Quy hoạch thành phố thuận lợi hơn cho đi lại bằng xe  
đạp, phương tiện công cộng và đi bộ  
1
2
3
4
5
6
7
Xây dựng hệ thống quản lý đảm bảo xác định rõ trách  
nhiệm của các bên trong việc thực hiện Kếhoạch tổ  
chức giao thông đi lại PDUIF  
8
Tăng mức độ thu hút của các phương tiện công cộng  
Làm cho người dân có trách nhiệm với việc đi lại của  
chính họa  
9
Làm cho việc đi bộ trở thành một phần quan trọng  
trong việc di chuyển  
Mang lại một làn gió mới cho việc đi xe đạp  
Có các biện pháp để điều chỉnh việc đi lại bằng các  
phương tiện cơ giới cá nhân  
Tạo thuận lợi để người dân tiếp cận dễ dàng với các  
phương tiện trong chuỗi đi lại  
Các thay đổi này phải có tác động qua  
lại lẫn nhau để giải quyết được các thách  
thức trong quá trình thực hiện Kế hoạch.  
Hợp lý hóa việc tổ chức vận tải hàng hóa, khuyến  
khích tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận tải hàng  
hóa bằng đường thủy và đường sắt  
Hình 6 : các nguyên tắc đề ra trong Kế hoạch PDUIF (STIF)  
13  
III - CẤP CHIẾN THUẬT:  
CƠ QUAN TỔ CHỨC GIAO THÔNG AOT  
Vậy cơ quan AOT được tổ chức theo loại hình  
pháp lý nào ?  
Các vấn đề chính đặt ra khi thành lập  
một Cơ quan tổ chức giao thông AOT  
Các cơ quan tổ chức giao thông AOT có thể là một  
cơ quan nhà nước chuyên trách, hoặc một vụ hoặc sở  
trực thuộc một cơ quan hành chính, một tổ chức của  
nhiều chính quyền địa phương, hoặc mộtcơ quan do  
chính quyền địa phương lập nên. Để AOT có thể  
đảm nhiệm vai trò quan trọng trong chính sách giao  
thông, nên để những người chịu trách nhiệm của cơ  
quan AOT có thể tiếp cận trực tiếp với các lãnh đạo  
chịu trách nhiệm trực tiếp trong quyết định chính  
sách quy hoạch đô thị.  
Qua các kinh nghiệm quốc tế, có thể thấy trên thế  
giới có nhiều hình thức tổ chức một Cơ quan tổchức  
giao thông thống nhất AOT. Ở một số nước, chính  
quyền thành phố đảm trách luôn cấp chiến lược  
và giao cho một cơ quan khác phụ trách cấp chiến  
thuật; ở một số nước khác, các Cơ quan AOT chịu  
trách nhiệm cả hai cấp chiến lược và chiến thuật.  
Ngoài ra, các cơ quan AOT cũng có thể giao ủy  
quyền cho một hay nhiều công ty nhiệm vụ khai thác  
các dịch vụ giao thông và giao cho họ một mức thẩm  
quyền và trách nhiệm nhất định. Sau đây là một vài  
điểm cần suy nghĩ khi tiến hành thành lập một cơ  
quan tổ chức giao thông thống nhất :  
Có thể liên kết với các đối tác nào ?  
Thành phần của hội đồng quản trị hoặc phân chia  
trách nhiệm và hoạt động của hội đồng sẽ quyết định  
tới mô hình quản trị. Một số cơ quan AOT có hội  
đồng quản trị kết hợp thành phần ở nhiều cấp quản  
lý hành chính (cấp xã, cấp thành phố, cấp vùng,  
v.v.), một số cơ quan khác lại có thành viên hội đồng  
quản trị là các tác nhân kinh tế hoặc đại diện người  
sử dụng dịch vụ, v.v  
Quy trình thành lập như thế nào?  
Ở châu Âu, có ba hình thức tổ chức AOT :  
• Cơ quan chuyên trách được thành lập để giúp việc  
cho cơ quan quản lý hành chính trong vấn đề giao  
thông (trường hợp của hai thành phố Lyon và Paris).  
• Dần biến các công ty khai thác thành cơ quan tổ  
chức giao thông AOT (Ví dụ : Stockholm, Milan,  
Luân Đôn và Bruxelles).  
• Cơ quan AOT kiêm nhiệm, trong đó nhiệm vụ  
chính là tổ chức giao thông (Ví dụ : Copenhague et  
Helsinki).  
Cơ quan tổ chức giao  
thông AOT là hình  
thức tổ chức tích hợp  
cao nhất về quản  
lý giao thông và phát  
triển đô thị  
Phạm vi thẩm quyền đến đâu ?  
Việc xác đinh phạm vi thẩm quyền là rất quan trọng.  
Nếu phạm vi thẩm quyền hành chính nhỏ hơn phạm  
vi về địa lý của khu vực đô thị, sẽ khó có được một  
chính sách giao thông đô thịtổng thể ; nếu phạm vi  
lớn hơn, cơ quan tổ chức giao thông AOT sẽ có khó  
khăn trong việc quản lý các vùng có mức độ đô thị  
hóa thấp hơn.  
Cơ quan tổ chức giao thông AOT có thẩm  
quyền và trách nhiệm như thế nào ?  
Các loại cơ quan AOT được phân chia theo nhiệm  
vụ mà cơ quan đó đảm nhiệm. Tư duy như vậy có lẽ  
là yếu tố quan trọng nhất trong việc thành lập một  
14  
Phát triển đô thị  
Lồng ghép giao thông và quy hoạch đô thị  
Chính sách giao thông đô thị  
Lưu thông và bến bãi  
Logistics đô thị  
Tích hợp các phương thức giao thông  
Tổng thể « thị trường » giao thông công cộng  
Tổ chức « giao thông phi chính thức »  
Dịch vụ đi lại  
Điều tiết giao thông công cộng  
Khung pháp lý  
Xác định mạng lưới cần xây dựng và các  
dịch vụ cần có  
Kiểm tra nghĩa vụ dịch vụ công cộng  
Dịch vụ theo hợp đồng  
Chuẩn kỹ thuật  
Quảng bá và thông tin  
Giám sát chất lượng  
Hình 7 : các cấp độ thẩm quyền và trách nhiệm của một Cơ quan tổ chức giao thông AOT  
cơ quan tổ chức giao thông AOT. Đây cũng là một tư  
duy có vai trò quyết định trong việc hình dung mức  
độ trách nhiệm của một cơ quan AOT : thẩm quyền  
của một cơ quan AOT có thể chỉ giới hạn ở việc  
điều tiết giao thông công cộng, hoặc tổ chức toàn bộ  
các hoạt động đi lại của hành khách, hoặc mở rộng  
ra toàn bộ các vấn đề liên quan đến giao thông đi  
lại. Hình thức tổ chức tổng thể nhất của một cơ quan  
AOT, xét về mặt tổ chức thể chế, sẽ phải gắn kết hai  
lĩnh vực là giao thông và phát triển đô thị.  
một vấn đề có tính quyết định trong việc ràng buộc  
trách nhiệm hợp đồng giữa công ty vận hành và Cơ  
quan AOT. Ngời ra, cơ quan AOT cũng có thể có  
các nguồn trợ giá, trợ cấp từ chính phủ hoặc chính  
quyền địa phương. Các khoản trợ cấpnày được rót  
dài hạn, để giúp cho các cơ quan AOT có thể chủ  
động trong các khoản đầu tư. Ngoài ra, các cơ quan  
AOT còn có thêm các nguồn tự có.  
Thuế giao thông áp dụng ở Pháp là một ví dụ hay  
được nhắc đến. Loại thuế này được áp dụng với  
các doanh nghiệp và cơ quan tổ chức có từ 9 nhân  
viên hưởng lương trở lên đóng tại địa bàn nằm trong  
phạm vi bán kính được mạng lưới giao thông đô thị  
phục vụ. Các khoản thu từ loại thuế này chiếm hơn  
40% ngân sách giao thông của các thành phố lớn.  
Ngoài ra, ngày càng nhiều nước mới nổi đang tìm  
các công cụ tài chính khác nhau để đầu tư cho giao  
thông đô thị. Đơn cử, cơ quan AOT có thể nhận  
quản lý một tài sản bất động sản đi cùng với hạ tầng  
giao thông công cộng.  
Hơn nữa, xác định rõ trách nhiệm của một cơ quan  
AOT cũng sẽ quyết định đến phạm vi trách nhiệm  
của các công ty khai thác, của nhà nước hoặc tư  
nhân. Cơ quan AOT có thể yêu cầu công ty khai thác  
– một hay nhiều công ty – tham gia đóng góp ở cấp  
độ chiến thuật để có thể đầu tư cho đổi mới công  
nghệ và xây dựng chiến lược phát triển hướng tới  
nhu cầu của hành khách.  
Ngân sách hoạt động của Cơ quan AOT lấy từ  
nguồn nào ?  
Nguồn nhân lực và thẩm quyền của AOT ?  
Một mặt, cơ quan AOT có thể là chủ sở hữu đối với  
các nguồn thu từ hoạt động của các công ty khai thác,  
sau đó, rót lại cho các công ty này dưới dạng khoán,  
hoặc AOT có thể để cho các công ty khai thác tự  
quản lý các khoản thu và yêu cầu chi cho các khoản  
đầu tư tùy theo lượng hành khách và mức dịch vụ  
cung cấp. Vấn đề quản lý các nguồn thu cũng là  
Văn hóa quản lý trong một cơ quan AOT phụ thuộc  
nhiều vào việc đội ngũ cán bộ nhân viên đến từn-  
guồn nào, cũng như phụ thuộc vào chính sách thuê  
tư vấn ngoàiuyển dụng ngoài của AOT. Khi nhận  
cán bộ nhân viên từ các cơ quan quản lý hành chính  
chung hoặc từ các công ty khai thác vào làm trong  
15  
nội bộ cơ quan, AOT sẽ có nhiều phạm vi thẩm  
quyền khác nhau. Mức độ thuê tư vấn ngoài trong  
nước hoặc nước ngoài cũng sẽ ảnh hưởng tới việc  
AOT có thực hiện đầy đủ và hoàn toàn thẩm quyền  
của mình hay không.  
nhượng lại một số dịch vụ cho các công ty tư  
nhân nhỏ.  
Đồng thời, TRAMOC cũng phải nhượng lại một  
số dịch vụ cho các công ty tư nhân nhỏ. Tính  
đến năm2012, Hà Nội có 64 tuyến, trong đó  
TRANSERCO quản lý 49 tuyến. Công ty liên doanh  
xe buýt Hà Nội, do UBND TP nắm đa số cổ phần,  
quản lý 6 tuyến. Ba tuyến còn lại do ba công ty tư  
nhân khai thác.  
AOT của Hà Nội sẽ được tổ chức theo  
mô hình nào ?  
Đối với thủ đô Hà Nội, UBND TP sẽ chịu trách  
nhiệm ở cấp chiến lược. Cơ quan này sẽ đề ra chính  
sác giao thông với các chỉ tiêu cụ thể tầm trung và  
dài hạn. Việc cơ quan lãnh đạo cao nhất cũng là cơ  
quan quyết định chính sách về giao thong, sẽ giúp  
đảm bảo xây dựng được các chiến lược đồng bộ  
thống nhất.  
Hiện nay các bên có thẩm quyền đang nghiên cứu  
khả năng phát triển TRAMOC thành một « cơ quan  
độc lập, mạnh và an toàn về tài chính, có thẩm quyền  
đủ để điều phối và tổ chức việc lập kế hoạch và khai  
thác hệ thống giao thông công cộng của Hà Nội»1.  
MRB : Cơ quan tổ chức giao thông AOT cho  
mạng lưới đường sắt đô thị ?  
Ngược lại, ở cấp chiến thuật, Sở Giao thông sẽ chịu  
trách nhiệm quản lý hệ thống đường giao thông của  
thành phố (không tính mạng lưới giao thong nội bộ  
cấp nhỏ sẽ do ủy ban nhân dân quận huyện tự quản  
lí), việc phát triển giao thông công cộng sẽ do hai cơ  
quan giám sát : Trung tâm quản lý và vận hành hệ  
thống giao thông (TRAMOC) quản lý hệ thống xe  
buýt và Ban quản lý dự án đường sắt đô thị MRB sẽ  
chịu trách nhiệm quản lý mạng lưới đường sắt đô thị.  
Theo quyết định số 925/QD-UBND ngày 22 tháng 2  
năm 2012 của UBND TP Hà Nội, Ban quản lý dựán  
đường sắt đô thị MRB đã được thành lập trên cơ sở  
tăng cường vai trò của Ban quản lý dự án đường sắt  
đô thị Hà Nội HRB. Quyết định của UBND TP Hà  
Nội quy định rõ vai trò của MRB, đây là một cơ quan  
nhà nước trực thuộc UBND TP. MRB có nhiệm vụ  
giúp việc cho UBND TP trong việc thựhiện dự án  
xây dựng mạng lưới đường sắt đô thị qua tất cả các  
khâu từ nghiên cứu khả thi đến triển khai dự án và  
vận hành mạng lưới.  
TRAMOC : cơ quan quản lý hành chính chịu  
trách nhiệm phát triển hệ thống xe buýt  
Được thành lập năm 1998 theo quyết định của  
UBND TP (quyết định số 3527/QD-UBND), TRA-  
MOC trực thuộc Sở giao thông Hà Nội, Trung tâm  
có các nhiệm vụ sau :  
MRB chịu trách nhiệm  
nghiên cứu, phát triển,  
quản lý, vận hành và  
bảo dưỡng hệ thống  
đường sắt đô thị.  
• Lập kế hoạch và khai thác mạng lưới giao thô-  
ng công cộng (hệ thống đường giao thông, lên kế  
hoạch, quản lý số lượng xe lưu thông);  
• Quản lý và phân bổ thu nhập từ giao thông công  
cộng cũng như vốn hỗ trợ từ ngân sách;  
• Quản lý hạ tầng giao thông công cộng;  
• Phát hành vé xe buýt;  
• Quản lý, giám sát, kiểm tra việc khai thác hệ thống  
giao thông công cộng;  
• Thực hiện các dự án.  
MRB được giao vai trò làm chủ đầu tư, quản lý, khai  
thác và bảo trì các tuyến đường sắt đô thị Hà Nội.  
Như vậy, MRB chịu trách nhiệm thực hiện công việc  
nghiên cứu, phát triển, quản lý, khai thác và bảo trì  
bảo dưỡng hệ thống đường sắt đô thị Hà Nội. UBND  
TP cũng đã giao cho MRB nhiệm vụ đối ứng trực  
tiếp của các cơ quan tài trợ vốn quốc tế trong các  
hoạt động đầu tư vào dự án đường sắt đô thị và các  
dự án xây dựng hạ tầng.  
Hiện tại, TRAMOC chưa có quyền tự chủ đầy  
đủ. Cho đến năm 2008, công ty xe buýt nhà nước  
TRANSERCO vẫn độc quyền khai thác dịch vụ  
xe buýt của Hà Nội, do vậy TRAMOC chưa thể  
tăng thẩm quyền của mình trong lĩnh vực điều tiết  
hệ thống. Vào thời điểm đó, TRANSERCO được  
cơ cấu để trở thành công ty mẹ với khoảng 10 chi  
nhánh, và một số công ty liên doanh với các công  
ty tư nhân. Đồng thời, TRANSERCO cũng phải  
1
Mekin (2012), The Transition of TRAMOC to a Trans-  
port Authority : Principles and issues  
16  
Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội  
Phối hợp GTCC +  
phương tiện khác  
Sở giao thông vận tải  
MRB  
Phối hợp hệ thống  
xe buýt+đường sắt đô thị  
TRAMOC  
Các phương  
tiện khác  
Buýt  
L1  
L2 L2a L3 L5  
Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội  
Phối hợp GTCC  
+ các phương tiện khác  
Sởgiao thông  
vận tải  
TRAMOC + MRB  
Các phương  
tiện khác  
Buýt  
L1  
L2 L2a L3 L5  
Mô hình tổ chức không tích hợp các phương tiện (phía trên) và mô hình tích hợp đa phương tiện (phía dưới)  
Hình 8 : hai mô hình tổ chức ởcấp quản lý  
17  
MRB có trách nhiệm phối hợp với các bộ ngành  
trong việc chuẩn bị đề xuất tổ chức các hoạt động bảo  
trì bảo dưỡng cũng như khai thác các tuyến đường  
sắt đô thị Hà Nội để trình lên UBND TP. Ngoài ra,  
MRB cũng có thẩm quyền thành lập các đơn vị quản  
lý dự án và các chi nhánh để đảm bảo quản lý, khai  
thác và bảo trì bảo dưỡng các tuyến đường sắt đô thị  
sau khi đã hoàn thành các công trình hạtầng.  
sẽtạo điều kiện thuận lợi cho việc các bên sẽ có một  
tầm nhìn chiến lược chung, bổ sung cho nhau trong  
việc quản lý mạng lưới đa phương tiện ngay từ khâu  
lên kế hoạch và quy hoạch mạng lưới. Nhưvậy, mỗi  
phương tiện (buýt, BRT, métro, v.v.) sẽ được sử  
dụng với hiệu quả tối ưu cho từng khu vực. Các dịch  
vụ vận tải với công suất chuyên chở thấp hơn có thể  
kết nối với các phương tiện có công suất chuyên  
chở lớn.  
Tích hợp hay phối hợp mạng lưới đa phương  
tiện ở cấp độ cơ quan quản lý?  
Dù áp dụng mô hình nào trong hai mô hình trên, các  
cơ quan quản lý của Việt Nam cũng phải tính  
Sơ đồ sau đây giới thiệu hai mô hình tổ chức của cơ  
quan tổ chức giao thông công cộng và sự phối hợp  
của cơ quan này với UBND TP Hà Nội. Mô hình thứ  
nhất tương ứng với tình hình hiện nay, mô  
hình này bắt buộc phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa  
các cơ quan quản lý giao thông. Vai trò điều phối  
này được xác định ở cấp chiến lược, tức là ở cấp  
của UBND TP.  
đến việc tạo điều kiện để mạng lưới có thể kết nối  
đồng bộ sớm nhất có thể :  
• trong lựa chọn hệ thống vé, kết hợp với chính sách  
về giá vé, hai nội dung này cần phải có ngay khi các  
tuyến metro được đưa vào vận hành.  
• đối với phòng điều khiển trung tâm để cung cấp  
thông tin cho hành khách nhất là khi có xảy ra sựcố.  
• để quy hoạch và tổ chức hệ thống các nhà ga nhằm  
đảm bảo kết nối thông suốt giữa hệ thống xe buýt và  
métro, cũng như với các loại hình phương tiện khác,  
cần phải quy hoạch ngay từ bây giờ hệthống đường  
dành cho người đi bộ, bãi đỗ xe trung chuyển tại các  
bến giao thông công cộng cho ô tô cá nhân, xe máy  
và xe đạp.  
Mô hình thứ hai là mô hình tích hợp đa phương tiện  
ở cấp độ quản lý, tức là sẽ có một cơ quan tổchức  
giao thông AOT thống nhất, gộp cả hai đơn vị là  
MRB và TRAMOC vào làm một. Lựa chọn này  
18  
Khung 2 :  
STIF hiện chịu trác nhiệm quản lý một trong các  
mạng lưới giao thông công cộng lớn nhất châu  
Âu:  
Vận hành của STIF  
Tổ chức giao thông vùng Île-de-France và  
nhiệm vụ của STIF  
RER : 5 tuyến, 1 525 km, 448 ga, 1 167  
triệu lượt  
Métro (tàu điện ngầm) : 14 tuyến, 217 km,  
300 ga, 1 524 triệu lượt  
Tramway (tàu điện mặt đất) : 4 tuyến, 70  
ga, 42 km, 114 triệu lượt  
Buýt: 1 449 tuyến, 24 660 km, 32 024 bến,  
1 332 triệu lượt  
Vùng Île de France có một số lượng lớn các chính  
quyền địa phương : một hội đồng vùng, 8 tỉnh trong  
đó có TP Paris ; 1 281 chính quyền xã phường, một  
số xã phường nằm trong cùng một khu vực đô thị  
được gộp vào thành đơn vị hành chính liên xã . Với  
vị thế là vùng thủ đô, nên Nhà nước cũng có vai trò  
đặc biệt trong tổ chức giao thông tại Paris.  
STIF là một cơ quan tổ chức giao thông tổng thể, có  
thẩm quyền đối với tất cả các loại hình phương tiện  
giao thông, trên toàn bộ phạm vi địa giới hành chính  
vùng Île-de-France. Các nhiệm vụ chính của STIF  
bao gồm :  
Thành lập năm 1959, STIF được đặt dưới sự điều  
hành của nhà nước cho tới ngày 1 tháng 7 năm 2005.  
Tính đến thời điểm đó, Nhà nước vẫn chiếm đa số  
ghế trong Hội đồng quản trị và giữ chức chủtịch hội  
đồng quản trị. Nhà nước chỉ rút ra sau khi có chính  
sách phân quyền quản lý đối với lĩnh vực giao thông  
đô thị cho các chính quyền địa phương, và 2 năm sau  
khi thực hiện quy hoạch phân vùng lĩnh vực vận tải  
đường sắt. Hiện tại, nhà nước Pháp không còn có đại  
diện trong STIF, Hội đồng vùng thủ đô đang nắm đa  
số ghế trong hội đồng quản trịvà giữ chức chủ tịch  
của cơ quan này. Hiện tại có hai bên đại diện trong  
thành phần của Hội đồng quản trị : đại diện của giới  
kinh tế, và đại diện của chính quyền các xã và thành  
phố, và chính quyền liên xã của vùng Île-de-France.  
Hội đồng quản trị của STIF gồm 29 thành viên, do  
Chủ tịch Hội đồng vùng Île-de-France làm chủ tịch.  
• Xác định các dịch vụ giao thông công cộng cần  
cung cấp, giá vé, mức độ cung cấp của hệthống,  
mục tiêu chất lượng dịch vụ ;  
• Ràng buộc trách nhiệm hợp đồng với các công  
ty khai thác vận hành mạng lưới và kiểm soát hoạt  
động của các công ty đó ;  
• Xây dựng kế hoạch, quy hoạch giao thông đi lại ;  
• Nghiên cứu tính toán và thực hiện các hạng mục  
đầu tư hiện đại hóa và phát triển mạng lưới ;  
• Đề ra kế hoạch kết nối các phương tiện trong  
mạng lưới ;  
• Đảm bảo cân bằng tài chính bền vững.Ngân sách  
hoạt động năm 2011 của ngành giao thông công cộng  
vùng Île-de-France là 8,34 tỉ euro(xem thêm hình 7).  
Ngân sách hoạt động năm 2011 của ngành giao  
thông công cộng vùng Île-de-France là 8,34 tỉ euro  
(xem thêm hình 10).  
Trước 2005  
Sau 2005  
Nhà nước  
vùng  
TP Paris  
Các tỉnh  
Phòng công nghiệp  
và thương mại  
Liên xã  
Hình 9 : phân bổ số ghế trong Hội đồng quản trị STIF  
19  
Tài chính cho vận hành giao thông công cộng vùng Ile-de-France  
Chính quyền  
địa phương  
và nhà nước  
Thuế giao  
thông của các  
doanh nghiệp  
Hành khách  
Tiền vé  
Chủ DN  
Khác  
Quảng cáo, tiền phạt,bản  
các sản phẩm dư  
Tiền hoàn trả một  
phần vé tháng GTCC  
cho nhân viên  
Trong đó :  
Thu từ tiền vé = 3 297 M€  
1164 triệu € đóng góp pháp định (tiền  
từcác địa phương đóng góp cho STIF)  
128 triệu € tiền trợ cấp của Nhà nước  
cho xe buýt trường học  
142 triệu € từ Vùng thủ đô (trong phạm  
vi thẩm quyền) chi cho các hoạt động  
xã hội  
188 triệu € từ ngân sách các tỉnh (trong  
phạm vi thẩm quyền) chi cho các hoạt  
động xã hội.  
65 triệu € tiền bù lỗ (từngân sách  
tỉnh, xã, và các EPIC cho công ty vận tải)  
RATP  
(metro, buýt, tàu  
điện và RER)  
SNCF  
(RER, tàu hỏa và  
tàu điện)  
Optile  
(buýt, phương tiện  
phục vụ trường học)  
khác  
*điều tra về thu nhập từtiền vé (nguồn : STIF 2011)  
Hình 10 : tình hình tài chính ngành giao thông công cộng vùng Île-de-France (STIF)  
Quan hệ với các công ty khai thác  
Để đảm bảo thực hiện dịch vụ theo các điều khoản của  
Tại vùng Île de France, việc khai thác mạng lưới đường  
sắt đô thị được giao cho các công ty nhà nước : công  
ty RATP, trước đây là công ty khai thác mạng lưới  
tàu điện ngầm Paris và tổng công ty đường sắt quốc  
gia Pháp SNCF. Ngoài ra, còn có 76 công ty tư nhân,  
và chi nhánh của các tập đoànVEOLIA TRANDEV,  
KEOLIS, RATP DEV, các công ty và chinh nhánh này  
đều là thành viên của hiệp hội nghề nghiệp Optile.  
Hoạt động của lĩnh vực đường sắt đô thị vùng Île-de-  
France không có cạnh tranh. Chính vì vậy không có  
quy trình đấu thầu. Tuy nhiên, hoạt động của lĩnh vực  
này được quản lý theo hợp đồng ký kết giữa STIF và  
mỗi công ty khai thác, theo đó công ty khai thác cam  
kết cung cấp dịch vụ theo mức giá đã định trước.  
hợp đồng đã ký kết, STIF cùng với các công ty khai  
thác soạn thảo các chỉ số đánh giá hiệu quả. Các chỉ  
số này sẽ được kết hợp với các mục tiêu cụthể và các  
biện pháp khuyến khích bằng tài chính. Các hợp đồng  
mới được ký kết năm 2012 có ghi rõ các biện pháp  
khuyến khích và ưu tiên cho tiêu chí phục vụ đúng giờ  
giấc và cung cấp đầy đủ thông tin cho hành khách.  
Từ năm 2005, STIF đã đưa ra một chính sách tham  
vọng với mục tiêu hiện đại hóa và phát triển mạng  
lưới. Dưới sự quản lý của nhà nước, mạng lưới giao  
thông công cộng chưa được đầu tư đúng mức trong  
thời gian dài. Vì vậy, mục tiêu đặt ra cho năm 2016 là  
toàn bộ hệ thống tàu chạy sẽ được thay mới hoặc đại  
tu. Tổng số tiền đầu tư cho chính sách này lên tới 4 tỉ  
euro, 50 % số tiền này do STIFđảm nhận.  
Các định hướng chiến lược do STIF xây dựng sẽ  
được cụ thể hóa thành các mục tiêu và được các công  
ty cam kết thực hiện, chủ yếu liên quan đến đảm bảo  
mức dịch vụ cung cấp, chất lượng và giá cả, chi phí.  
Hợp đồng đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đề ra  
thường có thời hạn 4 năm. Đây sẽ là khung đảm bảo  
để các công ty ký kết thực hiện vai trò và nhiệm vụ của  
mình trong việc tổ chức và phát triển mạng lưới giao  
thông vùng Île-de-France.  
STIF cũng đã ký các hợp đồng với các công ty khác  
nhau (RATP, SNCF, và các doanh nghiệp thành viên  
của hiệp hội Optile) để giao cho họ vai trò chủ đầu  
tư. Cụ thể là giai đoạn 2008-2011, 7 tỉ euro đầu tư đã  
được RATP và SNCF cam kết, số tiền này cao hơn số  
tiền 5 tỉ euro cam kết trong các hợp đồng trước đó.  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 36 trang yennguyen 31/03/2022 5160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo hội thảo Quản lý và vận hành hệ thống giao thông công cộng Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_hoi_thao_quan_ly_va_van_hanh_he_thong_giao_thong_con.pdf