The impact of ecolabels on consumers’ attitude and green purchase intention for agricultural products a theoretical approach

VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
Review Article  
The Impact of Ecolabels on Consumers’ Attitude and  
Green Purchase Intention for Agricultural Products  
A Theoretical Approach  
Nguyen Thu Ha*, Le Trung Hieu, Vu Tra My  
VNU University of Economics and Business,  
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam  
Received 20 September 2019  
Revised 24 September 2019; Accepted 25 September 2019  
Abstract: Green consumption trends are changing consumers' choice and purchase intentions.  
Eco-labels are formed in order to stimulate acts of purchasing environmentally friendly products  
and transmitting green product messages. Based on the synthesis of intentional behavioral models  
and theory, the paper proposes an analytical framework of four elements (i.e.: eco-label  
knowledge, belief, value perception and environmental concern) in analyzing the effect of  
eco-labels on consumer attitudes and green purchase intention for agricultural products.  
Keywords: Ecological label, green purchase intention, green consumption, green products.  
*
_______  
* Corresponding author.  
E-mail address: hant@vnu.edu.vn  
52  
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
Ảnh hưởng của nhãn sinh thái tới thái độ và ý định mua xanh  
sản phẩm nông nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết  
Nguyễn Thu Hà*, Lê Trung Hiếu, Vũ Trà My  
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 20 tháng 9 năm 2019  
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 9 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 9 năm 2019  
Tóm tắt: Xu hướng tiêu dùng xanh đang làm thay đổi ý định trong lựa chọn và mua sắm của  
người tiêu dùng. Nhãn sinh thái hình thành với vai trò kích thích hành vi mua sản phẩm thân thiện  
môi trường và truyền tải thông điệp sản phẩm xanh. Dựa trên tổng hợp các mô hình và lý thuyết  
hành vi ý định (TPB), bài viết đề xuất khung phân tích sử dụng 4 yếu tố (kiến thức nhãn sinh thái,  
niềm tin, nhận thức giá trị, mối quan tâm đến môi trường) để phân tích ảnh hưởng của nhãn sinh  
thái đối với thái độ người tiêu dùng và ý định mua xanh sản phẩm nông nghiệp.  
Từ khóa: Nhãn sinh thái, ý định mua xanh, tiêu dùng xanh, sản phẩm xanh.  
1. Mở đầu *  
Ô nhiễm môi trường gây ra những hậu quả  
cách hợp , tiết kiệm hạn chế các sản phẩm  
gây ô nhiễm. Từ đó, tiêu dùng xanh xuất hiện,  
trở thành giải pháp thiết thực, hiệu quả đối phó  
với ô nhiễm môi trường. Người tiêu dùng hiện  
đại đã chấp nhận và dành sự ưu tiên nhiều hơn,  
sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm và dịch  
vụ xanh [1, 2].  
Các doanh nghiệp đã nhanh chóng nắm bắt  
cơ hội từ tiêu dùng xanh, phát triển hình thức  
marketing xanh trong sản xuất, phân phối và  
tiêu thụ sản phẩm. Bộ ba công cụ chính của  
marketing xanh bao gồm: (i) Thương hiệu sinh  
thái; (ii) Nhãn sinh thái; (iii) Quảng cáo bảo vệ  
môi trường [3]. Theo nghiên cứu của Rex và  
Baumann (2007), nhãn sinh thái truyền tải  
những thông tin hiệu quả giúp người tiêu dùng  
dễ tiếp cận sản phẩm, nâng cao ý định mua sản  
phẩm xanh [4]. WTO định nghĩa nhãn sinh thái  
“là một loại chứng nhận cấp cho sản phẩm thỏa  
mãn một số tiêu chí nhất định về môi trường do  
cơ quan chính phủ hoặc tổ chức được ủy nhiệm  
nghiêm trọng đối với hệ sinh thái tự nhiên và  
sức khỏe con người. Việc tìm kiếm giải pháp  
nhằm cải thiện môi trường tự nhiên là vô cùng  
cấp thiết và được nhiều chính phủ, doanh  
nghiệp, tổ chức, người tiêu dùng trên toàn thế  
giới quan tâm. Nhìn chung, người tiêu dùng  
hiện đại được trang bị những tri thức tốt hơn về  
môi trường do tiếp cận nhiều nguồn thông tin  
hữu ích, bản thân họ có xu hướng đóng góp  
những hành động tích cực để bảo vệ môi  
trường. Đồng thời, chính phủ cùng bộ, ngành  
liên tục ban hành các chính sách kiểm soát ô  
nhiễm, nhiều tổ chức phi lợi nhuận khuyến nghị  
người dân sử dụng tài nguyên thiên nhiên một  
_______  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: hant@vnu.edu.vn  
53  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
54  
cung cấp” (Hội thảo về nhãn sinh thái - WTO,  
tháng 3/2005). Sự xuất hiện của nhãn đóng góp  
hai vai trò chính: chức năng thông tin và chức  
năng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp [5].  
Dưới góc độ thông tin, nhãn sinh thái chứng  
nhận độ tin cậy của sản phẩm, giảm sự mập mờ,  
đắn đo khi khách hàng lựa chọn và gián tiếp  
hình thành chuỗi cung ứng xanh [6].  
các quốc gia phát triển như Đức, Canada,  
Mỹ, chương trình nhãn sinh thái phát triển  
mạnh, trở thành một tiêu chí phát triển bền  
vững của quốc gia. Các chương trình nhãn sinh  
thái như “Blue Angel” năm 1978 ở Đức, “The  
ECOLOGO” năm 1988 ở Canada là minh  
chứng điển hình của chương trình nhãn sinh  
thái khi đem lại lợi ích chung cho công động  
như nguồn tài chính cho chính phủ, chứng nhận  
sản phẩm doanh nghiệp củng cố niềm tin  
người tiêu dùng.  
Tại Việt Nam, Tổng cục Môi trường đã học  
hỏi, kế thừa chương trình nhãn sinh thái ở nước  
ngoài, bổ sung định nghĩa “nhãn sinh thái dành  
cho những sản phẩm có mức độ ưu tiên chung  
về môi trường cao hơn so với sản phẩm cùng  
loại khác trên cơ sở đánh giá toàn bộ chu trình  
luân chuyển vòng đời sản phẩm”. Chương trình  
nhãn sinh thái có tên gọi “Nhãn xanh Việt  
Nam” do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát  
triển năm 2009 nhưng thiếu sức hấp dẫn đối với  
doanh nghiệp và hiện chưa triển khai hiệu quả.  
Thêm vào đó, các doanh nghiệp nội địa phải  
đăng chứng nhận nhãn sinh thái ở nước  
ngoài với chi phí cao, người tiêu dùng gặp trở  
ngại trong lựa chọn khi có quá nhiều hình thức  
nhãn khác nhau trên thị trường.  
2. Cơ sở lý luận về nhãn sinh thái và ý định  
mua xanh  
2.1. Marketing xanh  
Marketing xanh là thuật ngữ được đặt nền  
móng đầu tiên bởi Stanton (1987), được xác  
định “là việc các tổ chức doanh nghiệp tìm  
kiếm những hoạt động kinh doanh mới thân  
thiện môi trường”. Có nhiều quan điểm khác về  
marketing xanh nhưng nhìn chung, thuật ngữ  
này tập trung vào ba hướng tiếp cận chính:  
“định hướng marketing xanh”, “chiến lược  
marketing xanh“chức năng marketing  
xanh”, như định nghĩa tổng hợp của Groening  
và cộng sự (2018): “Marketing xanh bao gồm  
những hành động hướng tới khách hàng và mục  
tiêu tổ chức trên khía cạnh hoạt động tiếp thị -  
marketing, khẳng định mục tiêu doanh nghiệp  
trong làm giảm tác hại đến môi trường của sản  
phẩm và dịch vụ” [7].  
Tiêu dùng xanh hình thành do nhận thức  
người tiêu dùng tốt hơn về tính thân thiện môi  
trường của sản phẩm, sự phát triển của khoa  
học, truyền thông và hiểm họa của gia tăng dân  
số cũng như sự nóng lên toàn cầu [8]. Các  
doanh nghiệp đã nắm bắt xu hướng trên, chuyển  
hướng phát triển marketing xanh bởi khách  
hàng trở nên ưa chuộng sản phẩm có tính năng  
môi trường nổi trội [9]. Tuy nhiên, marketing  
xanh vẫn đứng trước các thách thức về truyền  
đạt thông điệp tới người tiêu dùng và đáp ứng  
yêu cầu của các tổ chức liên quan (ví d: chính  
phủ, siêu thị); trong khi đó tiềm ẩn những vấn  
đề khó nhận biết khác như: văn hóa, cạnh  
tranh…  
Tham khảo các nghiên cứu trước đây về đề  
tài nhãn sinh thái, nhóm nghiên cứu nhận thấy  
số lượng hạn chế các tài liệu liên quan, đồng  
thời các bài viết chưa đưa ra khung phân tích  
tổng quát hay tìm ra những tác động của nhãn  
sinh thái đối với thái độ và ý định mua xanh.  
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhóm tác  
giả đề xuất khung phân tích ảnh hưởng của  
nhãn sinh thái tới thái độ người tiêu dùng và  
ý định mua sản phẩm nông nghiệp dựa trên kế  
thừa và tổng hợp các nghiên cứu trong và  
ngoài nước.  
Động lực phát triển marketing xanh của  
doanh nghiệp, gồm: (i) phương thức thể hiện  
trách nhiệm xã hội; (ii) nguyên nhân do cạnh  
tranh. Các ngoại tố đóng vai trò quan trọng  
khác, gồm: chính sách của chính phủ, so sánh  
sản phẩm truyền thống và sản phẩm xanh, chủ  
nghĩa tiêu dùng [10].  
2.2. Sản phẩm xanh  
Theo định nghĩa của Cộng đồng Châu Âu  
(2001), sản phẩm xanh là loại sản phẩm sử  
dụng ít tài nguyên, rủi ro thấp đối với môi  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
55  
trường và ít phát sinh chất thải. Theo Dangelico  
và Pontrandolfo (2010), sản phẩm xanh là  
“những sản phẩm có tác động tốt và giảm thiểu  
ảnh hưởng xấu từ các sản phẩm đi kèm” [11].  
Có thể hiểu, sản phẩm xanh không nhất thiết  
phải có tính chất sản phẩm “xanh, mà có thể  
thể hiện dưới nhiều hình thức như bao bì, đóng  
gói, vận chuyển… và các yếu tố phụ trợ tạo nên  
sản phẩm có khuynh hướng thân thiện với môi  
trường. McDonagh và Prothero (1997) chỉ ra có  
rất nhiều cách tiếp cận để hiểu từ “xanh”, như  
thân thiện sinh học, chính trị, trách nhiệm xã  
hội, trao đổi công bằng, bảo tồn, phi lợi nhuận,  
cách tiêu dùng mới, sự bền vững, bình đẳng  
[12]. Hiện nay, các công ty xây dựng chiến lược  
sản xuất với mục tiêu “xanh hóa” sản phẩm và  
dịch vụ theo nhu cầu và cơ hội từ thị trường do  
nguyên nhân từ luật pháp, cạnh tranh và trách  
nhiệm sinh thái [13-15]; dẫn đến chiến lược  
phát triển bền vững, thân thiện môi trường trở  
thành một trong những thế mạnh cạnh tranh  
trên thị trường [16].  
Sản phẩm xanh trong ngành nông nghiệp  
nhìn chung được nhìn nhận theo nhiều hướng  
tiếp cận, một trong số đó có thể kể đến như:  
không dùng thuốc trừ sâu, sản phẩm hữu cơ,  
quy trình chăm sóc, bao bì đóng gói… Như  
vậy, sản phẩm nông nghiệp xanh có thể dễ dàng  
được chứng nhận thông qua nhiều thành phần  
tính năng phù hợp thị hiếu và sự quan tâm của  
người tiêu dùng đối với môi trường.  
trên sản phẩm nhãn sinh thái để truyền tải mục  
tiêu môi trường là “thân thiện sinh thái”, “an  
toàn môi trường”, “có thể tái chế”, “có thể phân  
hủy”, “thân thiện với tầng ozon” [19].  
Nhãn sinh thái giúp doanh nghiệp định  
hình tệp khách hàng tiêu dùng xanh, sử dụng  
chiến lược khác biệt hóa trong cạnh tranh và  
tăng thêm giá trị sản phẩm. Chứng nhận giá  
trị sản phẩm qua nhãn sinh thái xóa đi những  
khoảng trống thông tin giữa người mua và  
người bán, thể hiện thông điệp môi trường  
của sản phẩm, thuyết phục người dùng về sự  
trung thực của mặt hàng. Các sản phẩm  
“xanh” có giá bán cao hơn so với sản phẩm  
truyền thống cùng loại, vì vậy, người mua sẽ  
đánh giá và xác định rõ giá trị đem lại, mà  
quá trình này có thể rút ngắn nhờ chứng nhận  
trực tiếp của nhãn sinh thái [4, 20].  
Người tiêu dùng chi trả nhiều hơn cho sản  
phẩm nhãn sinh thái do nhu cầu sử dụng sản  
phẩm đạt tiêu chuẩn và các giá trị nhận thức  
tiến bộ [21]. Tổng hợp lại có ba nguyên nhân  
chính thúc đẩy sử dụng nhãn sinh thái cho sản  
phẩm: (i) Vai trò hiệu quả sinh thái của sản  
phẩm, (ii) Chiều sâu và rộng cỉa thông điệp  
truyền đạt bởi chính phủ và các tổ chức, (iii)  
Giá trị chiến lược và đổi mới của doanh nghiệp.  
Tuy nhiên, nhãn sinh thái tồn tại một số hạn  
chế nhất định ảnh hưởng tới doanh nghiệp và  
quá trình tiêu thụ sản phẩm, cụ thể: (i) Ràng  
buộc của chính sách cứng nhắc dẫn đến những  
tình huống phức tạp trong kinh doanh, (ii)  
Chứng minh đảm bảo chất lượng sản phẩm do  
giá bán sản phẩm gán nhãn cao, (iii) Tác động  
đối với các sản phẩm không có nhãn bán song  
song, (iv) Trở ngại trong giao thương theo quy  
định của WTO về chính sách mua sắm  
công… [17]  
2.3. Nhãn sinh thái  
Như đề cập ở phần mở đầu, nhãn sinh thái  
là một trong ba công cụ hữu ích nhằm kích  
thích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm; có hai  
vai trò chức năng chính: (i) Chức năng thông  
tin; (ii) Chức năng trách nhiệm xã hội và uy tín  
doanh nghiệp [18]. Trong bài viết này, nhóm  
nghiên cứu tập trung vào chức năng thông tin  
nhãn sinh thái để làm rõ tác động đối với thái  
độ người tiêu dùng và ý định mua xanh. Theo  
De Haes (2010), chức năng thông tin ảnh hưởng  
tới việc đưa ra quyết định thị trường của doanh  
nghiệp theo hai hướng: mục tiêu khách hàng sử  
dụng sản phẩm, và khách hàng doanh nghiệp  
trong chuỗi cung ứng [17]. Từ khóa thường gặp  
Nhãn sinh thái sản phẩm nông nghiệp  
Nhãn sinh thái gắn trên sản phẩm nông  
nghiệp theo một hệ thống chứng nhận căn bản,  
được phân loại theo tiến trình gây trồng hoặc  
theo loại hình sản phẩm. Nhìn chung, có ba  
phương pháp gán nhãn sinh thái cho sản phẩm  
nông nghiệp: nhãn sinh thái công nghiệp, chứng  
chỉ bền vững về tài nguyên thiên nhiên và nhãn  
Fair Trade” (thương mại công bằng).  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
56  
định mua xanh là mong muốn và khả năng một  
Thông tin của nhãn sinh thái mô tả những  
người chi trả cho những đặc tính thân thiện môi  
trường của sản phẩm so với mặt hàng truyền  
thống [26]. Các định nghĩa trên tiếp cận theo  
những góc nhìn khác nhau, nhưng nhìn chung  
đều chỉ ra rằng ý định mua xanh là những mong  
muốn chủ quan của người tiêu dùng trong thực  
hiện hành vi mua sản phẩm xanh dựa trên đặc  
điểm môi trường vượt trội mà sản phẩm  
mang lại.  
đặc điểm sản phẩm nông nghiệp (dinh dưỡng,  
hương vị, hóa chất sử dụng) hoặc phương pháp  
canh tác nông nghiệp (thuốc trừ sâu, điều kiện  
lao động, thời điểm canh tác). Sở dĩ chức năng  
thông tin của sản phẩm có sự liên quan đến chất  
lượng hơn các nhân tố môi trường là do tính  
chất nông sản khá đặc thù, người tiêu dùng dễ  
hiểu nông nghiệp xanh là tốt cho môi trường.  
Ngoài ra, nghiên cứu của Pirog (2003) thực  
hiện ở tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ cho thấy người  
tiêu dùng mua nông sản xanh không phải do  
yếu tố vượt trội hơn về môi trường mà vì sự an  
toàn và nhu cầu dinh dưỡng [22]. Nhãn sinh  
thái sản phẩm nông nghiệp được nhìn nhận  
dưới góc độ chứng nhận sản phẩm “tươi sạch”  
mang lại hương vị tốt hơn. Đặc biệt, người tiêu  
dùng còn tự trang bị kiến thức về mùa vụ sản  
xuất sản phẩm, khoảng cách vận chuyển sản  
phẩm đến nơi bán phục vụ cho nhu cầu lựa  
chọn đúng sản phẩm tươi mới. Như vậy, nhãn  
sinh thái dành cho thực phẩm có thể được nhìn  
nhận là hình thức truyền tải thông điệp về chất  
lượng sản phẩm đến người tiêu dùng [23].  
Nhiều học giả đã nghiên cứu xác định các  
nhân tố thúc đẩy hành vi mua xanh của người  
tiêu dùng thông qua ý định, hoặc cố gắng giải  
thích các nhân tố ngoại vi và nội vi tác động  
đến nhận thức của người tiêu dùng sản phẩm  
xanh: (i) Kết quả khảo sát của Chan (2001) cho  
thấy các yếu tố văn hóa và thể chế chính trị có  
tác động đến ý thức và thái độ với mua sản  
phẩm xanh, đồng thời nhận thức vấn đề suy  
thoái môi trường sống có tác động rõ rệt đối với  
ý định mua xanh hơn là tuyên truyền bảo vệ  
môi trường [25]; (ii) Chen và Hsun Chan  
(2012) nghiên cứu phương pháp tăng ý định  
mua xanh, chỉ ra mối tương quan dương giữa ý  
định mua xanh và giá trị nhận thức xanh,  
nghịch biến với nhận thức rủi ro, đồng thời  
khẳng định niềm tin là yếu tố trung gian thúc  
đẩy [27]; (iii) Clare D’Souza và cộng sự (2006)  
khuyến khích các nhà quản trị phân khúc thị  
trường qua ba nhân tố chính là giá, chất lượng,  
đặc điểm nhân khẩu - để kích thích hành vi mua  
xanh [19]; (iv) Ramayah và cộng sự (2010) cho  
rằng nắm bắt nhân tố ý định thông qua động lực  
cá nhân có ảnh hưởng đối với hành vi mua xanh  
[28]. Như vậy, các học giả đã tiếp cận trên  
nhiều góc độ và xác định các nhân tố có ảnh  
hưởng đến ý định mua xanh. Joshi và Rahman  
(2015) đã tổng kết lại tất cả các công trình từ  
năm 2000-2014, chỉ ra hai tác nhân chủ yếu  
hình thành ý định mua xanh: (i) Yếu tố con  
người: cảm xúc, tập quán, hiệu quả nhận thấy,  
kiểm soát hành vi, giá trị, niềm tin, kiến thức,  
phong cách sống; (ii) Yếu tố tình huống: giá, sự  
sẵn có, tập tục môi trường, chức năng chất  
lượng sản phẩm, phân phối hàng, thương hiệu,  
nhãn sinh thái và thông điệp môi trường [29].  
2.4. Ý định mua xanh  
Nghiên cứu của Ajzen (1991) về thuyết  
TPB cho thấy ý định là nhân tố trực tiếp và  
khách quan lý giải hành vi người tiêu dùng. Mô  
hình chỉ ra ý định là nhân tố trung gian nắm bắt  
động lực từ thái độ, chuẩn chủ quan, nhận thức  
hành vi kiểm soát; sau đó thúc đẩy hành vi thực  
hiện thực tế [24]. Như vậy, ý định càng cao thì  
càng dễ hướng đến hành vi được thực hiện, tuy  
nhiên cần cân nhắc ngoài ảnh hưởng bởi nội tố  
bên trong con người, hành vi còn chịu tác động  
của ngoại tố về cơ hội và nguồn lực (ví dụ: thời  
gian, tiền, kỹ năng).  
Ý định mua xanh là sự phát triển mới xuất  
phát từ ý định mua sắm, bổ sung thêm động lực  
về bảo vệ môi trường của con người. Chan  
(2001) định nghĩa “ý định mua xanh là hành vi  
chi trả cho sản phẩm thân thiện với môi trường  
và đồng thời tránh sử dụng sản phẩm gây ô  
nhiễm” [25]. Một quan điểm khác cho rằng ý  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
57  
3. Đề xuất khung phân tích các yếu tố ảnh  
hưởng tới thái độ và ý định mua xanh  
giữa các biến có ảnh hưởng, động cơ, mục tiêu  
mua hàng sản phẩm xanh của người tiêu dùng.  
Kết quả cho thấy, về do sử dụng sản phẩm  
xanh: 84,62% người lựa chọn mục tiêu sản  
phẩm tốt cho sức khỏe; 53,85% người chú trọng  
mục tiêu vì môi trường, 38,46% lựa chọn theo  
xu hướng do yếu tố ngoại cảnh (ảnh hưởng từ  
người xung quanh…); người tiêu dùng có kiến  
thức cao về nhãn đạt 61,54% và có thái độ tốt  
về sản phẩm đạt 83,62%. Nhóm thứ hai, nhân  
viên bán hàng và quản doanh nghiệp, kết quả  
kinh doanh sản phẩm nông sản xanh nhãn sinh  
thái có chiều hướng tốt, đồng thời lợi nhuận gia  
tăng ổn định. Từ phía doanh nghiệp cấp nhãn  
USDA Hoa Kỳ, nhãn sinh thái đang gia tăng tốt  
do nhu cầu của người dân cao, độ phủ của nhãn  
đang cải thiện rõ rệt, dự kiến sẽ tăng trưởng  
nhanh trong thời gian tới. Ngoài ra, yếu tố về  
giá thành không thực sự ảnh hưởng đến hoạt  
động lựa chọn do sản phẩm nông nghiệp xanh  
có mức giá trung bình và không thay đổi nhiều  
giữa các đơn vị cung cấp khác nhau trên thị  
trường. Nhóm thứ ba, chuyên gia trong lĩnh vực  
marketing, nhận định rằng xu thế sử dụng sản  
phẩm xanh nhãn sinh thái là nhu cầu thiết yếu,  
có sự gia tăng nhanh và bền vững do xu hướng  
“xanh hóa” trên thế giới cũng như động lực tiêu  
dùng xuất phát từ tình hình thực phẩm tại thị  
trường Việt Nam. Nhận định về đề tài nghiên  
cứu, các chuyên gia cho rằng đây là nghiên cứu  
khá mới, nắm bắt tính cấp thiết về nhu cầu thị  
hiếu, các thang đo phân tích phù hợp.  
Nghiên cứu của Groening và cộng sự  
(2018) tổng kết hơn 20 lý thuyết và mô hình  
sử dụng từ các nghiên cứu về nhãn sinh thái,  
marketing xanh, đồng thời đưa ra những luận  
điểm phương thức nghiên cứu [7]. Nhìn  
chung, lý thuyết mà các công trình lựa chọn  
được chia làm 6 nhóm, cụ thể: giá trị và kiến  
thức, niềm tin, thái độ, ý định, nhân tố động  
lực, sự chấp nhận xã hội. Các lý thuyết được  
nhiều công trình sử dụng bao gồm: học thuyết  
thái độ, thuyết thái độ hành vi, thuyết TPB,  
thuyết lựa chọn của người tiêu dùng, thuyết  
lựa chọn hợp và thuyết thích nghi - đổi  
mới; trong đó là thuyết TPB được dùng  
rộng rãi và phổ biến hơn cả.  
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về nhãn sinh  
thái và tác động của nhãn sinh thái tới thái độ  
và ý định mua xanh của người tiêu dùng còn rất  
hạn chế. Do vậy, nghiên cứu này đề xuất sử  
dụng mô hình TPB, tuy nhiên bỏ qua các nhân  
tố: chuẩn chủ quan (ảnh hưởng, sức ép của xã  
hội) và kiểm soát hành vi nhận thức (phản ánh  
việc dễ dàng hay khó khăn thực hiện hành vi  
phụ thuộc vào sự sẵn có của nguồn lực) do  
nhóm tác giả chỉ tập trung khai thác khía cạnh  
bên trong người tiêu dùng. Nghiên cứu còn bổ  
sung các nhân tố khác từ các nghiên cứu liên  
quan nhằm làm rõ tâm người tiêu dùng khi  
lựa chọn các sản phẩm nông nghiệp xanh.  
Bên cạnh đó, thông qua thảo luận phỏng  
vấn sâu với 28 người, chia làm 3 nhóm: (i)  
Nhóm người tiêu dùng, 13 người; (ii) Nhóm  
bán hàng và quản doanh nghiệp, 10 người;  
(iii) Nhóm chuyên gia trong lĩnh vực marketing,  
5 người, nhóm nghiên cứu điều chỉnh lại thang  
đo, biến quan sát và nội dung phỏng vấn cho  
phù hợp với đặc thù ngành thực phẩm, cụ thể là  
nông sản. Ở nhóm đầu tiên, người tiêu dùng đã  
từng tiêu dùng sản phẩm nông sản xanh nhãn  
Kế thừa các lý thuyết và mô hình nghiên  
cứu trước đây, kết hợp dữ liệu thu được từ  
phỏng vấn sâu với các chuyên gia, nhà quản trị  
và khách hàng, bài viết đề xuất khung phân tích  
gồm 4 yếu tố ảnh hưởng tới thái độ người tiêu  
dùng và ý định mua xanh gồm: kiến thức nhãn  
sinh thái, niềm tin, nhận thức giá trị, sự quan  
tâm đến môi trường.  
Khung phân tích bao gồm 6 cấu phần được  
mô tả cụ thể như sau:  
sinh thái, nhóm tập trung xác định mối liên hệ  
j
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
58  
Hình 1. Khung phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới thái độ người tiêu dùng và ý định mua xanh.  
Nguồn: Đề xuất của nhóm nghiên cứu  
Trong đó:  
▪ Kiến thức nhãn sinh thái: Kiến thức chủ  
nhãn sinh thái có ảnh hưởng tích cực và tương  
quan cao với ý định thanh toán sản phẩm. Đối  
với các sản phẩm nông nghiệp nhãn sinh thái,  
nông sản xanh được định giá cao hơn sản phẩm  
thông thường, do vậy, sự ảnh hưởng của niềm  
tin đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra  
quyết định mua sản phẩm xanh. Nghiên cứu của  
Schultz và cộng sự (2004) chỉ ra rằng, niềm tin  
hình thành nên thái độ người tiêu dùng dành  
cho sản phẩm và có tương quan dương [34].  
Nhận thức giá trị: Nhận thức giá trị là  
đánh giá tổng thể của khách hàng về giá trị của  
sản phẩm hay dịch vụ dựa trên quan điểm cá  
nhân và những gì hàng hóa đem lại [27]. Theo  
nghiên cứu của Crosby (1987) và Furman  
(2010), nhận thức giá trị là yếu tố tiên quyết thể  
hiện sự hài lòng của khách hàng. Thanh toán  
sản phẩm nhãn sinh thái có mức giá cao hơn,  
người tiêu dùng sẽ mong đợi những giá trị lợi  
ích thặng dư bù đắp khoản chi phí tăng thêm  
[35]. Tuy nhiên, giá trị lợi ích thể hiện khác  
nhau giữa những người tiêu dùng, phụ thuộc  
vào tâm lý, kiến thức và thái độ của họ. Như  
vậy, người tiêu dùng nhận biết được giá trị tích  
cực của sản phẩm càng cao sẽ càng kích thích  
hành vi mua sắm. Nghiên cứu của Schuzltz và  
cộng sự (2004) chỉ ra sự tương quan tích cực  
quan bao gồm cảm xúc, kinh nghiệm, quan  
điểm cá nhân và tri thức hiểu biết của người  
tiêu dùng về sản phẩm. Kiến thức là tiền đề để  
đánh giá và ra quyết định thực hiện hành vi  
[30]. Các nghiên cứu trước đã khẳng định kiến  
thức có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành  
niềm tin đối với sản phẩm nhãn sinh thái [31].  
Kiến thức là nền tảng của niềm tin, hình thành  
thái độ và dự đoán hành vi [32]. Ngoài ra, một  
số học giả đã chỉ ra sự tương quan giữa kiến  
thức và ý định mua xanh của người tiêu dùng.  
Công trình của Wang và Hazen (2015) chỉ  
ra nhận thức giá trị và nhận thức rủi ro chịu ảnh  
hưởng lớn bởi kiến thức về chất lượng sản  
phẩm, giá cả so với kiến thức xanh [33]. Người  
tiêu dùng có thể nhận rõ giá trị sản phẩm cũng  
như đánh giá các đặc tính môi trường của sản  
phẩm tốt hơn thông qua kiến thức của mình.  
Niềm tin: Niềm tin được định nghĩa là kỳ  
vọng của người tiêu dùng vào sản phẩm mà các  
doanh nghiệp, tổ chức tạo ra sản phẩm cam kết  
trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ liên quan  
(Perrini, 2010). Niềm tin người tiêu dùng đóng  
góp vào quá trình chuyển đổi từ dự định trở  
thành hành vi mua sắm; đặc biệt niềm tin vào  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
59  
của nhận thức giá trị và thái độ người tiêu  
dùng [34].  
quyết định của người tiêu dùng trong lựa chọn  
sản phẩm nhãn sinh thái, và các nhân tố có tác  
động tới ý định mua xanh gợi ý cho các nhà  
thiết kế chương trình nhãn tìm ra biện pháp kích  
thích tiêu dùng xanh.  
Khung phân tích có thể được ứng dụng  
trong việc phân tích thái độ người tiêu dùng và  
ý định mua xanh hướng tới sản phẩm nông  
nghiệp. Ngoài ra, khung phân tích có thể được  
ứng dụng cho các lĩnh vực khác của nhãn sinh  
thái, bao gồm: thiết bị điện tử, vận tải, chất tẩy  
rửa, thiết bị chiếu sáng …  
Sự quan tâm đến môi trường: Mục tiêu  
của nhãn sinh thái là chứng nhận và truyền tải  
những thông điệp xanh - thân thiện môi trường  
của sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Ý định  
trong thanh toán sản phẩm xanh bắt nguồn từ  
tiêu dùng xanh, hay cụ thể hơn là hành động  
của người tiêu dùng hướng đến sử dụng những  
sản phẩm thân thiện, gần gũi hơn đối với tự  
nhiên. Người tiêu dùng nắm bắt những thông  
tin của sản phẩm liên quan đến khía cạnh môi  
trường, đánh giá và tự đưa ra quyết định hành  
vi bảo vệ môi trường [36]. Tiêu dùng sản phẩm  
nông nghiệp gán nhãn sinh thái, người tiêu  
dùng đồng bộ những thông tin về chất lượng và  
thông tin về giá trị tự nhiên, do vậy, hành vi  
môi trường phản ánh một phần mối quan tâm  
của người mua. Nghiên cứu Schuzltz và cộng  
sự (2004) chỉ ra tương quan dương giữa sự  
quan tâm đến môi trường và thái độ người tiêu  
dùng [34].  
Thái độ: Trong lý thuyết TPB, thái độ là  
nhân tố đầu tiên và quan trọng trong dự đoán ý  
định hình thành hành vi của con người. Thái độ  
được định nghĩa là những phát biểu, cảm quan,  
đánh giá về giá trị sự vật, hiện tượng dưới góc  
độ hữu quan của con người. Chi tiết hơn, thái  
độ sinh thái là mối quan tâm của con người đối  
với các vấn đề thuộc về môi trường tự nhiên,  
hình thành thông qua niềm tin, mối quan tâm,  
giá trị và ý định của người tiêu dùng [34]. Các  
đề tài liên quan lựa chọn thái độ là yếu tố trực  
tiếp ảnh hưởng tới hành vi ý định mua xanh nhờ  
các dấu hiệu nhận biết từ nhãn sinh thái, thương  
hiệu hay những minh chứng cụ thể khác (đơn vị  
cấp nhãn: chính phủ hay tư nhân) [20, 25].  
Nghiên cứu của Bickart và Ruth (2012) xác  
đinh thái độ người tiêu dùng qua quảng cáo và  
thương hiệu có tác động tích cực tới ý định  
thanh toán sản phẩm xanh [37].  
4. Kết luận  
Thông qua khung phân tích đề xuất, bài viết  
đóng góp vào việc xây dựng thang đo các yếu  
tố ảnh hưởng tới việc sử dụng nhãn sinh thái  
trong sản phẩm nông nghiệp, bao gồm kiến  
thức nhãn sinh thái, niềm tin, nhận thức giá trị,  
sự quan tâm đến môi trường. Dựa trên việc tổng  
kết một số kết quả nghiên cứu lý thuyết và kiểm  
nghiệm thực chứng, các yếu tố này được dự  
đoán có thể ảnh hưởng tích cực đến thái độ  
người tiêu dùng và ý định mua xanh.  
Đóng góp quan trọng nhất của bài viết  
chính là đề xuất một khung phân tích được tổng  
hợp trong bối cảnh sản phẩm nông nghiệp xanh  
đang ngày càng được ưa chuộng và trong thời  
điểm chương trình “Nhãn xanh Việt Nam” đang  
gặp nhiều khó khăn cần tìm ra những giải pháp  
mới, các doanh nghiệp chưa tìm được nguồn  
cấp nhãn sinh thái chất lượng ở trong nước.  
Tuy nhiên, bài viết mới chỉ chú trọng phân  
tích yếu tố tâm lý bên trong người tiêu dùng mà  
chưa chú trọng nghiên cứu các yếu tố liên quan  
đến xã hội (chuẩn chủ quan), hay các yếu tố  
liên quan đến sự sẵn có của nguồn lực (nhận  
thức hành vi kiểm soát). Các nghiên cứu trong  
tương lai có thể bổ sung cách tiếp cận mới là  
tác động từ sự xuất hiện của nhãn sinh thái đối  
với ý định mua xanh, hoặc phát triển sâu hơn  
các ngoại tố từ xã hội và đặc điểm nguồn lực  
khách quan có ảnh hưởng trong việc lựa chọn  
hàng hóa, hoặc bổ sung các nhân tố khác thông  
qua thực nghiệm để tìm ra mô hình phù hợp  
trong bối cảnh nghiên cứu cụ thể.  
Ý định mua xanh: Ý định mua xanh liên  
quan đến việc chi trả cho các đặc tính môi  
trường của sản phẩm và đồng thời tránh sử  
dụng những sản phẩm gây hại đến tự nhiên  
[25]. Nghiên cứu về ý định mua xanh làm rõ  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
60  
[14] P. Bansal, K. Roth, “Why companies go green: A  
model of ecological responsiveness”, Academy of  
management journal 43 (4) (2000) 717-736.  
[15] J. GonzálezBenito, GonzálezBenito, “A review  
of determinant factors of environmental  
proactivity”, Business Strategy and the  
Environment 15 (2) (2006) 87-102.  
[16] G. Unruh, R. Ettenson, “Growing green, Harvard  
Business Review 88 (6) (2010) 94-100.  
[17] de Haes, HA Udo, G. R. de Snoo, Eco-labelling  
of agricultural food products, Environmental  
Assessment and Management in the Food  
Tài liệu tham khảo  
[1] Gordon-Wilson, Sianne, and Pratik Modi.  
Personality and older consumers’ green behavior  
in the UK, Futures 71 (2015) 1-10.  
[2] Moisander, Johanna. Motivational complexity of  
green consumerism”, International journal of  
consumer studies 31 (4) (2007) 404-409.  
[3] E. Rahbar, N. Abdul Wahid, “Investigation of  
green marketing tools’ effect on consumers’  
purchase behavior”, Business Strategy Series 12  
(2) (2011) 73-83.  
Industry,  
pp. 374-397  
Woodhead  
Publishing,  
2010,  
[4] E. Rex, H. Baumann, “Beyond ecolabels: what  
green marketing can learn from conventional  
marketing”, Journal of Cleaner Production 15 (6)  
(2007), 567-576.  
[5] K.M. Sønderskov, C. Daugbjerg, “The state and  
consumer confidence in eco-labeling: Organic  
labeling in Denmark, Sweden, The United  
Kingdom and The United States”, Agriculture and  
Human Values 28 (4) (2011) 507-517.  
[6] Rex, Emma, and Henrikke Baumann, Beyond  
ecolabels: What green marketing can learn from  
conventional marketing, Journal of cleaner  
production 15 (6) (2007) 567-576.  
[7] C. Groening, J. Sarkis, Q. Zhu, “Green marketing  
consumer-level theory review: A compendium of  
applied theories and further research directions”,  
[18] K. Sammer, R. Wüstenhagen, “The influence of  
eco-labelling on consumer behaviour - Results of  
a discrete choice analysis for washing machines”,  
Business Strategy and the Environment 15 (3)  
(2006) 185-199.  
[19] C. D’Souza, M. Taghian, P. Lamb, “An empirical  
study on the influence of environmental labels on  
consumers, Corporate Communications: An  
International Journal 11 (2) (2006) 162-173.  
[20] Atkinson, Lucy, Sonny Rosenthal, Signaling the  
green sell: The influence of eco-label source,  
argument specificity, and product involvement on  
consumer trust, Journal of Advertising 43 (1)  
(2014) 33-45.  
[21] Prieto-Sandoval, Vanessa, et al., ECO-labels as a  
multidimensional research topic: Trends and  
opportunities, Journal of Cleaner Production 135  
(2016) 806-818.  
[22] Pirog, S. Richard, Ecolabel value assessment:  
Consumer and food business perceptions of local  
foods, 2003.  
Journal of Cleaner Production 172  
1848-1866.  
(2018)  
[8] Cohen, Stephen, The growing level of  
environmental awareness, Huffington Post 29,  
2014.  
[9] Bhattacharya, Chitra Bhanu, and Sankar Sen,  
Doing better at doing good: When, why, and  
how consumers respond to corporate social  
initiatives, California Management Review 47  
(1) (2004) 9-24.  
[10] A.Z. He, T. Cai, T.X. Deng, X. Li, “Factors  
affecting nongreen consumer behaviour: An  
exploratory study among Chinese consumers,  
International Journal of Consumer Studies 40 (3)  
(2016) 345-356.  
[11] R.M. Dangelico, P. Pontrandolfo, “From green  
product definitions and classifications to the  
Green Option Matrix, Journal of Cleaner  
Production 18(16-17) (2010) 1608-1628.  
[23] A. Nilsson, A. Hansla, A. Biel, “Feeling the  
green? Value orientation as a moderator of  
emotional response to green electricity, Journal  
of Applied Social Psychology 44 (10) (2014),  
672-680.  
[24] I. Ajzen, The theory of planned behavior”,  
Organizational Behavior and Human Decision  
Processes 50 (2) (1991) 179-211.  
[25] R.Y.K. Chan, “Determinants of Chinese  
Consumers’  
Green  
Purchase  
Behavior,  
Psychology & Marketing 18 (4) (2001) 389-413.  
[26] N.R.N.A. Rashid, “Awareness of Eco-label in  
Malaysia’s  
International  
Management 4 (8) (2009) 132-141.  
Green  
Journal  
Marketing  
of  
Initiative”,  
Business  
and  
[12] P. McDonagh, A. Prothero, Green management: A  
reader,  
International  
Thomson  
Business  
[27] Y. Chen, C. Chang, “Enhance green purchase  
intentions: The roles of green perceived value,  
green perceived risk, and green trust”,  
Management Decision 50 (3) (2012) 502-520.  
Press, 1997.  
[13] P. Shrivastava, S. Hart, “Creating sustainable  
corporations”, Business Strategy and the  
Environment 4 (3) (1995) 154-165.  
N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-61  
61  
[28] T. Ramayah, Jason Wai Chow Lee, Osman  
[33] Y. Wang, B.T. Hazen, Consumer product  
knowledge and intention to purchase  
Mohamad, Green product purchase intention:  
Some  
insights  
from  
a
developing  
remanufactured products, Int. J. Prod. Econ. 181  
(4) (2015) 460-469.  
[34] P.W. Schultz, C. Shriver, J.J. Tabanico, A.M.  
Khazian, “Implicit connections with nature”,  
Journal of Environmental Psychology 24 (1)  
(2004) 31-42.  
[35] Furman, Wyndol, K. Jessica, Winkles, Predicting  
romantic involvement, relationship cognitions,  
and relationship qualities from physical  
appearance, perceived norms, and relational styles  
regarding friends and parents, Journal of  
Adolescence 33 (6) (2010) 827-836.  
country, Resources, Conservation and Recycling  
54 (12) (2010) 1419-1427.  
[29] Y. Joshi, Z. Rahman, “Factors Affecting Green  
Purchase Behaviour and Future Research  
Directions”, International Strategic Management  
Review 3 (1-2) (2015) 128-143.  
[30] J. Thøgersen, “Psychological Determinants of  
Paying Attention to Eco-Labels in Purchase  
Decisions: Model Development and Multinational  
Validation, Journal of Consumer Policy 23 (3)  
(2000) 285-313.  
[31] K.M.R. Taufique, A. Vocino, M.J. Polonsky,  
“The influence of eco-label knowledge and trust  
on pro- environmental consumer behaviour in an  
emerging market”, Journal of Strategic Marketing  
25 (7) (2017) 511-529.  
[32] M. Fishbein, I. Ajzen, Predicting and Changing  
Behavior: The Reasoned Action Approach, Taylor  
and Francis, 2011.  
[36] Grunert, C. Suzanne, Hans Jørn Juhl, Values,  
environmental attitudes, and buying of organic  
foods, Journal of Economic Psychology 16 (1)  
(1995) 39-62.  
[37] B.A. Bickart, J.A. Ruth, “Green eco-seals and  
advertising persuasion, Journal of Advertising,  
41 (4) (2012) 51-67.  
P
p
pdf 10 trang yennguyen 08/04/2022 3960
Bạn đang xem tài liệu "The impact of ecolabels on consumers’ attitude and green purchase intention for agricultural products a theoretical approach", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthe_impact_of_ecolabels_on_consumers_attitude_and_green_purc.pdf