Bài giảng Nguyên lý hệ điều hành (Phần 1)

MỤC LỤC  
1
2
Chương 1: TỔNG QUAN  
1.1 Giới thiệu  
Hệ điều hành là một chương trình phần mềm quản lý phần cứng máy tính. Nó  
cung cấp nền tảng cho các chương trình ứng dụng và đóng vai trò trung gian giao tiếp  
giữa người dùng máy tính và phần cứng của máy tính đó. Hệ điều hành thực hiện các  
nhiệm vụ rất đa dạng, một vài hệ điều hành được thiết kế để thực hiện một nhiệm vụ  
chuyên biệt nào đó trong khi một số hệ điều hành khác được thiết kế đa năng.  
1.1.1 Hệ điều hành là gì?  
Một hệ điều hành là một thành phần quan trọng của mọi hệ thống máy tính.  
Một hệ thống máy tính có thể được chia thành bốn thành phần: phần cứng, hệ điều  
hành, các chương trình ứng dụng và người sử dng.  
- Phần cứng (hardware): bao gồm bộ xử lý trung tâm (CPU), bộ nhớ  
(memory), thiết bị xuất/nhập (I/O),… cung cấp tài nguyên cơ bản cho hệ thống.  
- Các chương trình ứng dụng (application programs): trình biên dịch  
(compiler), trình soạn thảo văn bản (text editor), hệ cơ sở dữ liệu (database system),  
trình duyệt Web,... hỗ trợ người dùng sử dụng tài nguyên, giải quyết yêu cầu của  
người dùng.  
- Người dùng (user): là người sử dụng hệ thống, những người dùng khác nhau  
thực hiện những yêu cầu khác nhau bằng các ứng dụng khác nhau.  
- Hệ điều hành (operating system): hay còn gọi là chương trình hệ thống, điều  
khiển và phối hợp việc sử dụng phần cứng giữa những chương trình ứng dụng khác  
nhau cho những người dùng khác nhau. Hệ điều hành có thể được khai thác từ hai  
phía: người dùng và hệ thống.  
User 1  
User 2  
User N  
Database  
Text editor  
Compliler  
System and application programs  
Operating  
System  
Hardwave  
Hình 1.1 Các thành phần của một hệ thống máy tính  
4
     
+ Tầm nhìn người sử dng  
Tầm nhìn người sử dụng máy tính rất đa dạng bởi giao diện được dùng. Hầu  
hết những người dùng máy tính ngồi trước máy tính cá nhân gồm có màn hình, bàn  
phím, chuột và bộ xử lý hệ thống (system unit). Một hệ thống như thế được thiết kế  
cho một người dùng độc quyền sử dụng tài nguyên của nó để tối ưu hoá công việc mà  
người dùng đang thực hiện. Trong trường hợp này, hệ điều hành được thiết kế dễ  
dàng cho việc sử dụng với sự quan tâm về năng lực thực hiện ít quan tới việc sử dụng  
tài nguyên.  
người sử dụng ngồi tại thiết bị đầu cuối (terminal) được nối kết tới máy  
tính lớn (mainframe) hay máy tính tầm trung (minicomputer). Những người khác  
đang truy xuất cùng máy tính thông qua các thiết bị đầu cuối khác. Những người dùng  
này chia sẻ các tài nguyên và có thể trao đổi thông tin. Hệ điều hành được thiết kế để  
tối ưu hoá việc sử dụng tài nguyên để đảm bảo rằng tất cả thời gian phục vụ của CPU,  
bộ nhớ và thiết bị xuất nhập được sử dụng hữu hiệu, công bằng.  
Gần đây, các máy tính xách tay được sử dụng rộng rãi. Các thiết bị này được  
sử dụng chỉ bởi cá nhân người dùng. Một vài máy tính này được nối mạng hoặc nối  
trực tiếp bằng cáp mạng hay thông qua các modem không dây. Do sự giới hạn về  
năng lượng, hệ điều hành được thiết kế để tiết kiệm tối đa năng lượng của máy tính.  
Một số máy tính có rất ít hay không có giao diện với người dùng. Thí dụ, các  
máy tính được nhúng vào các thiết bị gia đình và xe ôtô có thể có một bảng số và các  
đèn hiển thị trạng thái mở, tắt nhưng hầu hết chúng và các hệ điều hành được thiết kế  
để điều khiển thiết bị không cần giao tiếp với ngưới sử dụng.  
+ Tầm nhìn hệ thống  
Chúng ta có thể thấy một hệ điều hành như bộ cấp phát tài nguyên. Hệ thống  
máy tính có nhiều tài nguyên - phần cứng và phần mềm - có thể được yêu cầu để cấp  
phát các tài nguyên: thời gian CPU, không gian bộ nhớ, không gian lưu trữ tập tin,  
các thiết bị xuất/nhập,... Hệ điều hành hoạt động như bộ quản lý tài nguyên, thực hiện  
một lượng lớn các yêu cầu cấp phát có thể xung đột về tài nguyên, hệ điều hành phải  
quyết định cách cấp phát tài nguyên tới những chương trình cụ thể và người dùng để  
có thể điều hành hệ thống máy tính hữu hiệu và công bằng.  
5
Một tầm nhìn khác của hệ điều hành nhấn mạnh sự cần thiết để điều khiển các  
thiết bị xuất/nhập khác nhau và chương trình người dùng. Một hệ điều hành là một  
chương trình điều khiển. Chương trình điều khiển quản lý sự thực hiện của các  
chương trình người dùng để ngăn chặn lỗi và việc sử dụng không hợp lý máy tính. Nó  
đặc biệt quan tâm với những thao tác và điều khiển các thiết bị nhập/xuất.  
Nhìn chung, không có định nghĩa hoàn toàn đầy đủ về hệ điều hành. Các hệ  
điều hành tồn tại vì chúng là cách hợp lý để giải quyết vấn đề tạo ra một hệ thống  
máy tính có thể sử dụng. Mục tiêu cơ bản của hệ thống máy tính là thực hiện chương  
trình người dùng và giải quyết các vấn đề để người dùng dễ dàng sử dụng hệ thống  
máy tính hơn. Hướng đến mục tiêu này, phần cứng máy tính được xây dựng. Tuy  
nhiên, chỉ đơn thuần là phần cứng thì không dễ sử dụng và phát triển các chương trình  
ứng dụng. Các chương trình ứng dụng khác nhau này đòi hỏi những thao tác chung  
nào đó, chẳng hạn như điều khiển thiết bị xuất/nhập. Sau đó, những chức năng chung  
về điều khiển và cấp phát tài nguyên được đặt lại với nhau vào một bộ phận phần  
mềm gọi là hệ điều hành.  
Mục đích chính của hệ điều hành là giúp người sử dụng dễ dàng hơn trong việc  
sử dụng hệ thống máy tính. Vì sự tồn tại của hệ điều hành hỗ trợ rất nhiều cho máy  
tính trong việc đáp ứng các ứng dụng của người dùng. Điều này đặc biệt rõ ràng hơn  
khi xem xét hệ điều hành trên các máy tính cá nhân.  
Mục tiêu thứ hai của hệ điều hành là điều hành hiệu quả hệ thống máy tính.  
Mục tiêu này đặc biệt quan trọng cho các hệ thống lớn, được chia sẻ, nhiều người  
dùng. Những hệ thống tiêu biểu này khá đắt, khai thác hiệu quả nhất các hệ thống này  
luôn là điều mong muốn. Tuy nhiên, hai mục tiêu tiện dụng và hữu hiệu đôi khi mâu  
thuẫn nhau. Trong quá khứ, xem xét tính hữu hiệu thường quan trọng hơn tính tiện  
dụng. Do đó, lý thuyết hệ điều hành tập trung nhiều vào việc tối ưu hoá sử dụng tài  
nguyên tính toán. Hệ điều hành cũng phát triển dần theo thời gian. Thí dụ, UNIX bắt  
đầu với bàn phím và máy in như giao diện của nó giới hạn tính tiện dụng đối với  
người dùng. Qua thời gian, phần cứng thay đổi và UNIX được gắn vào phần cứng  
mới với giao diện thân thiện với người dùng hơn. Nhiều giao diện người dùng đồ hoạ  
GUIs (graphical user interfaces) được bổ sung cho phép tiện dụng hơn với người  
dùng trong khi vẫn quan tâm tính hiệu quả.  
6
1.1.2 Các hệ xử lý theo lô đơn giản  
Những hệ thống máy tính mainframe là những máy tính đầu tiên được dùng để  
xử lý ứng dụng thương mại và khoa học. Trong phần này, chúng ta lần theo sự phát  
triển của hệ thống mainframe từ các hệ thống bó (batch systems), ở đó máy tính chỉ  
chạy một-và chỉ một -ứng dụng, tới các hệ thống chia sẻ thời gian (time-shared  
systems), ở đó cho phép người dùng giao tiếp với hệ thống máy tính.  
Những máy tính thời kỳ đầu là những máy có kích thước rất lớn và được chạy  
từ một thiết bị cuối (console). Những thiết bị nhập thường sử dụng là những bộ đọc  
thẻ, các ổ đĩa băng từ. Các thiết bị xuất thông thường thường là những máy in  
dòng (line printers), các ổ đĩa từ và các phiếu đục lỗ. Người dùng không giao tiếp trực  
tiếp với các hệ thống máy tính. Thay vào đó, người dùng chuẩn bị một công việc -  
chứa chương trình, dữ liệu và các thông tin điều khiển về tính tự nhiên của công việc  
– sau đó gửi nó đến người điều hành máy tính. Công việc này thường được thực hiện  
trong các phiếu đục lỗ. Sau một thời gian (vài phút, giờ hay ngày), dữ liệu kết quả sẽ  
xuất hiện.  
Hệ điều hành trong các máy tính thời kỳ đầu này tương đối đơn giản. Nhiệm  
vụ chính là chuyển điều khiển tự động từ thực hiện công việc này sang công việc  
khác. Hệ điều hành luôn được thường trú trong bộ nhớ.  
Hệ điều hành  
Vùng chương  
trình người dùng  
Hình 1.2 Sắp xếp bộ nhớ cho một hệ thống bó đơn giản  
Để tăng tốc việc xử lý, người điều hành ” các công việc có cùng yêu cầu và  
chạy chúng thông qua máy tính như một nhóm. Do đó, các lập trình viên sẽ đưa  
chương trình của họ cho người điều hành. Người điều hành sẽ sắp xếp chương trình  
thành những “” với cùng yêu cầu và khi máy tính sẵn ng sẽ chạy mỗi bó này. Dữ  
liệu xuất từ mỗi công việc sẽ gửi lại cho lập trình viên tương ứng.  
7
 
Trong môi trường thực hiện này, CPU luôn rỗi vì tốc độ của các thiết bị  
xuất/nhập dạng cơ thường chậm hơn tốc độ của các thiết bị điện. Một CPU chậm  
cũng có thể thực hiện hàng ngàn chỉ thị lệnh được thực hiện trên giây, trong khi đó  
một bộ đọc thẻ nhanh chỉ có thể đọc 1200 thẻ trong thời gian 1 phút (hay 20 thẻ trên  
giây). Do đó, sự khác biệt giữa tốc độ CPU và thiết bị xuất/nhập của nó có thể là 3 lần  
hay nhiều hơn. Theo thời gian, sự tiến bộ trong công nghệ dẫn đến sự ra đời những  
thiết bị nhập/xuất nhanh hơn. Tuy nhiên, tốc độ CPU tăng tới một tỷ lệ lớn hơn vì thế  
vấn đề không những không được giải quyết mà còn làm gia tăng cách biệt.  
Công nghệ đĩa từ cho phép hệ điều hành lưu giữ tất cả công việc trên một đĩa  
thay cho lưu giữ trong một bộ đọc thẻ tuần tự. Với việc truy xuất trực tiếp tới nhiều  
công việc trên đĩa từ, hệ điều hành có thể thực hiện lập lịch công việc, để sử dụng tài  
nguyên và thực hiện các công việc hiệu quả hơn.  
1.1.3 Các hệ xử lý theo lô, đa chương  
Một vấn đề rất quan trọng trong lập lịch công việc là khả năng đa chương.  
Thông thường, một người sử dụng luôn muốn CPU và các thiết bị xuất/nhập luôn  
bận, tận dụng tối đa hiệu suất của các thiết bị phần cứng. Đa chương sẽ làm gia tăng  
khả năng sử dụng CPU bằng cách tổ chức các công việc để CPU luôn có một công  
việc cần thực hiện.  
Ý tưởng của kỹ thuật đa chương có thể minh hoạ như sau: tại một thời điểm,  
hệ điều hành giữ nhiều công việc trong bộ nhớ trong. Tập hợp các công việc này là  
tập con của các công việc được giữ trong vùng công việc - bởi vì số lượng các công  
việc có thể được giữ cùng lúc trong bộ nhớ thường nhỏ hơn số công việc có thể có  
trong vùng đệm. Hệ điều hành sẽ lấy và bắt đầu thực hiện một trong các công việc có  
trong bộ nhớ. Khi công việc phải chờ một vài tác vụ như một thao tác xuất/nhập để  
hoàn thành, trong hệ thống đơn chương, CPU sẽ chờ ở trạng thái rỗi, còn trong hệ  
thống đa chương, hệ điều hành sẽ chuyển sang thực hiện công việc khác. Cuối cùng,  
công việc đầu tiên kết thúc việc chờ và nhận CPU để thực hiện tiếp. Chỉ cần ít nhất  
một công việc đang đợi để thực hiện, CPU sẽ không bao giờ ở trạng thái rỗi.  
8
 
Hệ điều hành  
Công việc 1  
Công việc 2  
Công việc 3  
Công việc 4  
Hình 1.3 Sắp xếp bộ nhớ cho hệ đa chương  
Đa chương là một trường hợp đầu tiên hệ điều hành phải thực hiện quyết  
định thay cho những người sử dụng, do đó, hệ điều hành đa chương tương đối phức  
tạp. Tất cả công việc đưa vào hệ thống được giữ trong vùng công việc. Vùng này  
chứa tất cả tiến trình lưu trữ trên đĩa cứng chờ được cấp phát bộ nhớ chính. Nếu nhiều  
công việc đang chờ sẵn sàng để được đưa vào bộ nhớ và nếu không đủ không gian  
cho tất cả công việc thì hệ điều hành phải chọn một công việc trong tập các công việc  
đang đợi. Khi hệ điều hành chọn một công việc từ vùng công việc, nó nạp công việc  
đó vào bộ nhớ để thực hiện. Có nhiều chương trình trong bộ nhớ tại cùng thời điểm  
yêu cầu phải có sự quản lý bộ nhớ. Ngoài ra, nếu nhiều công việc sẵn sàng chạy cùng  
thời điểm, hệ thống phải chọn một trong chúng. Thực hiện quyết định này là lập lịch  
CPU. Cuối cùng, nhiều công việc chạy đồng hành đòi hỏi hoạt động của chúng có thể  
ảnh hưởng tới một công việc khác thì bị hạn chế trong tất cả giai đoạn của hệ điều  
hành bao gồm lập lịch tiến trình, lưu trữ đĩa, quản lý bộ nhớ.  
1.1.4 Các hệ phân chia thời gian  
Hệ thống đa chương cung cấp một môi trường nơi mà nhiều tài nguyên khác  
nhau (chẳng hạn như CPU, bộ nhớ, các thiết bị ngoại vi) được sử dụng hiệu quả. Tuy  
nhiên, nó không cung cấp giao tiếp người dùng với hệ thống máy tính. Hệ điều hành  
đa nhiệm là sự mở rộng logic của đa chương. CPU thực hiện nhiều công việc bằng  
cách chuyển đổi qua lại giữa chúng, nhưng những chuyển đổi xảy ra rất thường xuyên  
để người dùng có thể giao tiếp với mỗi chương trình trong khi các chương trình thực  
hiện.  
9
 
Một hệ thống máy tính cung cấp giao tiếp trực tiếp giữa người dùng và hệ  
thống. Người dùng cho những chỉ thị tới hệ điều hành hay trực tiếp tới một chương  
trình, sử dụng bàn phím hay chuột và chờ nhận kết quả. Do đó, thời gian đáp ứng rất  
ngắn, thường trong phạm vi dưới một giây.  
Một hệ điều hành đa nhiệm (phân chia thời gian) sử dụng lập lịch CPU và đa  
chương để cung cấp mỗi người dùng với một phần nhỏ việc tính toán của máy tính  
trong mỗi thời điểm. Mỗi người dùng có ít nhất một chương trình riêng trong bộ nhớ.  
Một chương trình được nạp vào trong bộ nhớ và thực hiện thường được gọi là một  
tiến trình. Khi một tiến trình thực hiện, thông thường chỉ thực hiện trong một thời  
gian ngắn trước khi nó kết thúc hay cần thực hiện xuất/nhập. Xuất/nhập có thể được  
giao tiếp; nghĩa là dữ liệu xuất hiển thị trên màn hình cho người dùng và dữ liệu nhập  
từ bàn phím, chuột hay thiết bị khác. Vì giao tiếp xuất/nhập chủ yếu chạy ở tốc độ  
chậm, do đó nó có thể mất một khoảng thời gian dài để hoàn thành. Thí dụ, dữ liệu  
nhập có thể bị giới hạn bởi tốc độ nhập của người dùng; 7 ký tự trên giây là nhanh đối  
với người dùng, nhưng quá chậm so với máy tính. Thay vì để CPU rỗi khi người dùng  
nhập dữ liệu, hệ điều hành sẽ nhanh chóng chuyển CPU tới một tiến trình khác.  
Hệ điều hành đa nhiệm phức tạp hơn nhiều so với hệ điều hành đa chương.  
Trong cả hai dạng, nhiều công việc được giữ cùng lúc trong bộ nhớ vì thế hệ thống  
phải có cơ chế quản lý bộ nhớ và bảo vệ. Để đạt được thời gian đáp ứng hợp lý, các  
công việc có thể được hoán vị vào ra bộ nhớ chính. Một phương pháp chung để đạt  
mục tiêu này là bộ nhớ ảo, là kỹ thuật cho phép việc thực hiện của một công việc có  
thể không hoàn toàn ở trong bộ nhớ. Ưu điểm chính của cơ chế bộ nhớ ảo là các  
chương trình có thể lớn hơn bộ nhớ vật lý. Ngoài ra, nó trừu tượng hoá bộ nhớ chính  
thành mảng lưu trữ lớn và đồng nhất, chia bộ nhớ logic như được thấy bởi người dùng  
từ bộ nhớ vật lý. Sự sắp xếp này giúp cho lập trình viên không phải quan tâm đến giới  
hạn lưu trữ của bộ nhớ.  
Các hệ đa nhiệm cũng phải cung cấp một hệ thống tập tin. Hệ thống tập tin  
định vị trên một tập hợp đĩa; do đó quản lý đĩa phải được cung cấp. Hệ đa nhiệm cũng  
cung cấp cơ chế cho việc thực hiện đồng hành, yêu cầu cơ chế lập lịch CPU tinh vi.  
Để đảm bảo thứ tự thực hiện, hệ thống phải cung cấp các cơ chế cho việc đồng bộ hoá  
10  
và giao tiếp công việc, và có thể đảm bảo rằng các công việc không bị deadlock, tức  
chờ đợi công việc khác mãi mãi.  
Ý tưởng đa nhiệm được giới thiệu trong những năm 1960, nhưng vì hệ đa  
nhiệm là phức tạp và rất đắt để xây dựng, chúng không phổ biến cho tới những năm  
1970. Mặc dù xử lý theo lô vẫn được thực hiện nhưng hầu hết hệ thống ngày nay là đa  
nhiệm. Do đó, đa chương và đa nhiệm là những chủ đề chính của hệ điều hành hiện  
đại.  
1.1.5 Các hệ máy tính cá nhân  
Trong suốt thập niên đầu khi máy tính cá nhân (PC) xuất hiện, CPU trong PC  
thiếu các đặc điểm cần thiết để bảo vệ hệ điều hành từ chương trình người dùng. Do  
đó, các hệ điều hành PC không thực hiện được đa người dùng hoặc đa nhiệm. Tuy  
nhiên, các mục tiêu của hệ điều hành này thay đổi theo thời gian; thay vì tối ưu hoá  
việc sử dụng CPU và thiết bị ngoại vi, các hệ thống chọn lựa tối ưu hoá sự tiện dụng  
và đáp ứng người dùng. Các hệ thống này gồm các PC chạy các hệ điều hành  
Microsoft Windows và Apple Macintosh. Hệ điều hành MS-DOS từ Microsoft được  
thay thế bằng nhiều ấn bản của Microsoft Windows và IBM đã nâng cấp MS-DOS  
thành hệ đa nhiệm OS/2. Hệ điều hành Apple Macintosh được gắn nhiều phần cứng  
hiện đại hơn và ngày nay chứa nhiều đặc điểm mới như bộ nhớ ảo và đa nhiệm. Với  
sự phát hành MacOS X, lõi của hệ điều hành ngày nay dựa trên Mach và FreeBSD  
UNIX cho sự mở rộng, năng lực và đặc điểm nhưng nó vẫn giữ lại giao diện đồ hoạ  
người dùng GUI. LINUX, một hệ điều hành tương tự như UNIX sử dụng cho máy PC  
trở nên phổ biến gần đây.  
1.1.6 Các hệ song song, các hệ phân tán, các hệ thời gian thực  
1) Hệ đa xử lý  
Hầu hết các hệ thống ngày nay là các hệ thống đơn xử lý; nghĩa là chỉ có một  
CPU trong hệ thống. Tuy nhiên, các hệ thống đa xử lý được phát triển rất mạnh, các  
hệ thống như thế có nhiều hơn một bộ xử lý.  
Hệ thống đa xử lý có ba ưu điểm chính:  
+ Thông lượng được gia tăng: bằng cách tăng số lượng bộ xử lý, có thể thực  
hiện nhiều công việc hơn với thời gian ít hơn.  
11  
   
+ Tính kinh tế của việc mở rộng: hệ thống đa xử lý có thể tiết kiệm nhiều chi  
phí hơn hệ thống đơn bộ xử lý, bởi vì chúng có thể chia sẻ thiết bị ngoại vi, thiết bị  
lưu trữ và năng lượng điện tiêu thụ. Nếu nhiều chương trình điều hành trên cùng tập  
hợp dữ liệu thì lưu trữ dữ liệu đó trên một đĩa và tất cả bộ xử lý chia sẻ chúng sẽ rẻ  
hơn là có nhiều máy tính với đĩa cục bộ và nhiều bản sao dữ liệu.  
+ Khả năng tin cậy được gia tăng: nếu các chức năng được phân bổ hợp lý  
giữa các bộ xử lý thì lỗi trên một bộ xử lý sẽ không dừng hệ thống, chỉ năng lực bị  
giảm. Nếu chúng ta có 10 bộ xử lý và có 1 bộ xử lý bị sự cố thì mỗi bộ xử lý trong 9  
bộ xử lý còn lại phải chia sẻ của công việc của bộ xử lý bị lỗi. Do đó, toàn bộ hệ  
thống chỉ giảm 10% năng lực chứ không dừng hoạt động. Các hệ thống được thiết kế  
như thế được gọi là hệ thống có khả năng chịu lỗi (fault tolerant).  
Các hệ thống đa xử lý thông dụng nhất hiện nay sử dụng đa xử lý đối xứng  
(symmetric multiprocessing). Trong hệ thống này mỗi bộ xử lý chạy bản sao của hệ  
điều hành và những bản sao này giao tiếp với các bản sao khác khi cần. Ngoài ra, còn  
có các hệ thống sử dụng đa xử lý bất đối xứng (asymmetric multiprocessing). Trong  
hệ thống này mỗi bộ xử lý được gán một công việc xác định. Một bộ xử lý chủ điều  
khiển hệ thống; những bộ xử lý còn lại hoặc chờ bộ xử lý chủ ra chỉ thị hoặc có  
những tác vụ được định nghĩa trước. Cơ chế này định nghĩa mối quan hệ chủ-tớ. Bộ  
xử lý chính lập thời biểu và cấp phát công việc tới các bộ xử lý tớ.  
Đa xử lý đối xứng có nghĩa tất cả bộ xử lý là ngang hàng; không có mối quan  
hệ chủ-tớ tồn tại giữa các bộ xử lý. (Hình 1.4) minh hoạ một kiến trúc đa xử lý đối  
xứng điển hình. Một thí dụ của đa xử lý đối xứng là ấn bản của Encore của UNIX cho  
máy tính Multimax. Máy tính này có thể được cấu hình như nó đang thực hiện nhiều  
bộ xử lý, tất cả bộ xử lý đều chạy bản sao của UNIX. Ưu điểm của mô hình này là  
nhiều tiến trình có thể chạy cùng một lúc n tiến trình có thể chạy nếu hệ thống có n  
CPU. Tuy nhiên, chúng ta phải điều khiển chính xác việc xuất/nhập để đảm bảo rằng  
dữ liệu dẫn tới bộ xử lý tương ứng. Vì các CPU là riêng rẽ, một CPU có thể đang rỗi  
trong khi CPU khác quá tải dẫn đến việc sử dụng không hiệu quả tài nguyên của hệ  
thống. Sự không hiệu quả này có thể tránh được nếu các bộ xử lý chia sẻ các cấu trúc  
dữ liệu. Một hệ thống đa xử lý của dạng này sẽ cho phép các tiến trình và tài nguyên  
– như bộ nhớ - được chia sẻ tự động giữa các tiến trình khác nhau và có thể làm giảm  
12  
sự khác biệt giữa các bộ xử lý. Hầu như tất cả hệ điều hành hiện đại, như Windows  
NT, Solaris, Digital UNIX, OS/2 và LINUX hiện nay đều cung cấp sự hỗ trợ đa xử lý  
đối xứng.  
CPU  
CPU  
CPU  
…….  
Memory  
Hình 1.4 Kiến trúc đa xử lý đối xứng  
Sự khác biệt giữa đa xử lý đối xứng và bất đối xứng có thể là do phần cứng  
hoặc phần mềm. Phần cứng đặc biệt có thể khác nhau trên nhiều bộ xử lý, hoặc phần  
mềm có thể được viết để cho phép chỉ một chủ và nhiều tớ. Thí dụ, SunOS phiên bản  
4 cung cấp đa xử lý không đối xứng, nhưng phiên bản 5 là đối xứng trên cùng phần  
cứng.  
2) Hệ phân tán  
Một mạng máy tính với cách nhìn đơn giản nhất, là một đường dẫn truyền  
thông giữa hai hay nhiều hệ thống máy tính. Hệ phân tán phụ thuộc vào mạng với  
những khả năng của nó. Bằng cách cho phép truyền thông, hệ phân tán có thể chia sẻ  
các công việc tính toán và cung cấp nhiều chức năng tới người dùng.  
Các mạng rất đa dạng về giao thức sử dùng, khoảng cách giữa các nút và  
phương tiện truyền. TCP/IP là giao thức mạng phổ biến nhất mặc dù ATM và các  
giao thức khác được sử dụng rất rộng rãi. Tương tự, hệ điều hành hỗ trợ sự đa dạng  
về giao thức. Hầu hết các hệ điều hành hỗ trợ TCP/IP như hệ điều hành Windows,  
LINUX và UNIX. Một số hệ điều hành khác hỗ trợ các giao thức riêng phù hợp với  
yêu cầu của chúng. Đối với một hệ điều hành, một giao thức mạng chỉ cần một thiết  
bị giao diện – thí dụ: một card mạng - với một trình điều khiển thiết bị để quản lý nó  
và một phần mềm để đóng gói dữ liệu trong giao thức giao tiếp để gửi nó và mở gói  
để nhận nó.  
13  
3) Hệ thống nhóm (Clustered Systems)  
Tương tự các hệ song song, hệ thống nhóm tập hợp nhiều CPUs với nhau để  
thực hiện công việc tính toán. Tuy nhiên, hệ thống nhóm khác hệ thống song song ở  
điểm chúng được hợp thành từ hai hay nhiều hệ thống đơn được kết hợp với nhau  
(thông thường liên kết qua mạng LAN)  
Nhóm thường được thực hiện để cung cấp khả năng sẵn sàng sử dụng cao. Một  
lớp phần mềm nhóm chạy trên các nút nhóm (cluster nodes), mỗi nút có thể kiểm soát  
một hay nhiều hơn một nút (qua mạng LAN). Nếu máy bị kiểm soát gặp sự cố, máy  
kiểm soát có thể lấy quyền sở hữu việc lưu trữ của nó và khởi động lại các ứng dụng  
mà chúng đang chạy trên máy bị sự cố. Máy bị sự cố vẫn chưa hoạt động nhưng  
người dùng và khách hàng của ứng dụng chỉ thấy một sự gián đoạn ngắn của dịch vụ.  
Trong nhóm bất đối xứng (asymmetric clustering), một máy ở trong chế độ dự  
phòng nóng (hot standby) trong khi các máy khác đang chạy các ứng dụng. Máy dự  
phòng không làm gì cả chỉ theo dõi server hoạt động. Nếu server đó bị lỗi, máy chủ  
dự phòng nóng trở thành server hoạt động. Trong chế độ đối xứng (symmetric mode),  
hai hay nhiều máy chủ đang chạy ứng dụng và chúng đang kiểm soát lẫn nhau. Chế  
độ này chú trọng tính hiệu quả khi nó sử dụng tất cả phần cứng sẵn có. Nó thực hiện  
yêu cầu nhiều hơn một ứng dụng sẵn dùng để chạy.  
Các hình thức khác của nhóm gồm các nhóm song song (parallel clusters) và  
nhóm qua một WAN. Các nhóm song song cho phép nhiều máy chủ truy xuất cùng  
dữ liệu trên thiết bị lưu trữ được chia sẻ. Vì hầu hết các hệ điều hành hỗ trợ nghèo nàn  
việc truy xuất dữ liệu đồng thời bởi nhiều máy chủ, các nhóm song song thường được  
thực hiện bởi các ấn bản phần mềm đặc biệt và sự phát hành của các ứng dụng đặc  
biệt. Thí dụ, Oracle Parallel Server là một ấn bản cơ sở dữ liệu của Oracle, và lớp  
phần mềm ghi vết việc truy xuất tới đĩa được chia sẻ. Mỗi máy có truy xuất đầy đủ tới  
dữ liệu trong cơ sở dữ liệu.  
Mặc dù có nhiều cải tiến trong tính toán phân tán, hầu hết các hệ thống không  
cung cấp các hệ thống tập tin phân tán mục đích chung (general-purpose distributed  
file systems). Do đó, hầu hết các nhóm không cho phép truy xuất được chia sẻ tới dữ  
liệu trên đĩa. Cho mục đích này, các hệ thống tập tin phân tán phải cung cấp điều  
khiển truy xuất và khoá các tập tin để đảm bảo không có các thao tác xung đột xảy ra.  
14  
Loại dịch vụ này thường được gọi là bộ quản lý khoá phân tán (distributed lock  
manager-DLM).  
4) Hệ thời gian thực  
Một dạng khác của hệ điều hành có mục đích đặc biệt là hệ thời gian thực  
(real-time system). Hệ thời gian thực được dùng khi các yêu cầu thời gian khắt khe  
được đặt trên thao tác của một bộ xử lý hay dòng dữ liệu; do đó, nó thường được  
dùng như một thiết bị điều khiển trong một ứng dụng liên quan đến yếu tố thời gian.  
Các bộ cảm biến mang dữ liệu tới máy tính, máy tính phải phân tích dữ liệu và có thể  
thích ứng các điều khiển để hiệu chỉnh các dữ liệu nhập từ cảm biến. Các hệ thống  
điều khiển các thí nghiệm khoa học, hệ thống ảnh hoá y tế, hệ thống điều khiển công  
nghệ và các hệ thống hiển thị,... Các hệ thống phun dầu động cơ ôtô, các bộ điều  
khiển dụng cụ trong nhà, hệ thống vũ khí cũng là các hệ thống thời thực.  
Một hệ thống thời thực có sự ràng buộc cố định, rõ ràng. Xử lý phải được thực  
hiện trong phạm vi các ràng buộc được định nghĩa hay hệ thống sẽ thất bại. Một hệ  
thời thực thực hiện đúng chức năng chỉ nếu nó trả về kết quả đúng trong thời gian  
ràng buộc. Tương phản với yêu cầu này trong hệ chia thời, ở đó nó mong muốn  
(nhưng không bắt buộc) đáp ứng nhanh, hay đối với hệ thống theo lô, nó không có  
ràng buộc thời gian.  
1.2 Cấu trúc hệ điều hành  
Hệ điều hành cung cấp môi trường cho các chương trình thực hiện. Các hệ  
điều hành rất khác biệt nhau về kiến trúc, chúng được tổ chức cùng với các loại khác  
nhau. Thiết kế một hệ điều hành mới là một công việc quan trọng. Mục đích của hệ  
thống phải được định nghĩa rõ ràng trước khi thiết kế bắt đầu. Kiểu hệ thống mong  
muốn là cơ sở cho việc chọn lựa giữa các giải thuật và chiến lược khác nhau.  
Hệ điều hành có thể được xem xét từ nhiều góc nhìn khác nhau như: các dịch  
vụ mà hệ điều hành cung cấp; giao diện mà hệ điều hành cung cấp cho người dùng và  
người lập trình; những thành phần của hệ điều hành và các mối quan hệ bên trong của  
chúng. Trong chương này sẽ tìm hiểu cả ba khía cạnh của hệ điều hành, thể hiện ba  
quan điểm của người dùng, người lập trình và người thiết kế hệ điều hành. Chúng ta  
xem xét các dịch vụ mà hệ điều hành cung cấp, cách chúng được cung cấp và các  
phương pháp khác nhau được dùng cho việc thiết kế hệ điều hành.  
15  
 
1.2.1 Các thành phần hệ thống  
Chỉ có thể tạo ra một hệ thống lớn và phức tạp như hệ điều hành khi phân chia  
hệ điều hành thành những phần nhỏ hơn có độ phức tạp ít hơn. Mỗi phần nên là một  
thành phần được mô tả rõ ràng của hệ thống, với xuất, nhập và các chức năng được  
định nghĩa đầy đủ. Thông thường, các hệ điều hành được chia thành các thành phần  
sau:  
1) Quản lý tiến trình  
Một chương trình chỉ được thực hiện khi các chỉ thị của chương trình được  
một bộ xử lý trung tâm (CPU) thực hiện. Một tiến trình một chương đang thực  
hiện.  
Một tiến trình cần các tài nguyên xác định gồm thời gian CPU, bộ nhớ, tập tin,  
các thiết bị xuất/nhập để hoàn thành nhiệm vụ của nó. Các tài nguyên này được cấp  
cho tiến trình khi tiến trình được khởi tạo, hay được cấp phát cho tiến trình khi tiến  
trình đang thực hiện. Các tài nguyên được cấp phát cho các tiến trình có thể là tài  
nguyên vật lý hoặc tài nguyên logic. Khi tiến trình kết thúc, hệ điều hành sẽ thu hồi  
tất cả tài nguyên đã cấp cho tiến trình.  
Chú ý là một chương trình không phải là một tiến trình, một chương trình là  
một thực thể thụ động, như là nội dung của tập tin được lưu trên đĩa. Ngược lại với  
chương trình, một tiến trình là một thực thể hoạt động, được nạp vào bộ nhớ trong,  
với con trỏ lệnh xác định chỉ thị tiếp theo sẽ được thực hiện. Việc thực hiện của tiến  
trình phải là tuần tự. CPU thực hiện một chỉ thị của tiến trình sau khi đã thực hiện một  
chỉ thị trước đó, lần lượt cho đến khi tiến trình hoàn thành. Ngoài ra, tại bất kỳ thời  
điểm nào, với một tiến tỉnh chỉ có tối đa chỉ một chỉ thị được thực hiện.  
Một tiến trình là một đơn vị công việc trong hệ thống. Một hệ thống chứa tập  
các tiến trình, một vài tiến trình này là các tiến trình của hệ điều hành (thực hiện các  
lệnh của hệ thống) các tiến trình còn lại là các tiến trình người dùng (chúng thực  
hiện các lệnh của người dùng).  
Chức năng quản lý tiến trình của hệ điều hành gồm các nhiệm vụ sau:  
+ Tạo và xoá các tiến trình người dùng và hệ thống  
+ Tạm dừng và thực hiện tiếp tiến trình  
+ Cung cấp các cơ chế đồng bộ hoá tiến trình  
16  
 
+ Cung cấp các cơ chế giao tiếp tiến trình  
+ Cung cấp cơ chế quản lý khoá chết (deadlock)  
2) Quản lý bộ nhớ chính  
Bộ nhớ chính là trung tâm điều hành của một máy tính hiện đại. Bộ nhớ chính  
là một mảng các từ (words) hay bytes có kích thước lớn. Mỗi từ hay byte có địa chỉ  
riêng. Bộ nhớ chính là một kho chứa dữ liệu có khả năng truy xuất nhanh được chia  
sẻ bởi CPU và các thiết bị xuất/nhập. Bộ xử lý trung tâm đọc các chỉ thị từ bộ nhớ  
trong chu kỳ lấy chỉ thị, nó đọc và viết dữ liệu từ bộ nhớ chính trong chu kỳ lấy dữ  
liệu. Bộ nhớ chính thường là thiết bị lưu trữ lớn mà CPU có thể định địa chỉ và truy  
xuất trực tiếp. Thí dụ, đối với CPU xử lý dữ liệu từ đĩa, dữ liệu trước tiên được  
chuyển tới bộ nhớ chính bởi lời gọi xuất/nhập được sinh ra bởi CPU. Tương tự, các  
chỉ thị phải ở trong bộ nhớ cho CPU thực hiện chúng.  
Đối với một chương trình được thực hiện, nó phải được ánh xạ các địa chỉ và  
được nạp vào bộ nhớ. Khi chương trình thực hiện, nó truy xuất các chỉ thị chương  
trình và dữ liệu từ bộ nhớ bằng cách tạo ra các địa chỉ tuyệt đối này. Cuối cùng,  
chương trình kết thúc, không gian bộ nhớ của sẽ được thu hồi, và chương trình tiếp  
theo có thể được nạp và thực hiện.  
Để cải tiến việc sử dụng CPU và tốc độ đáp ứng của máy tính cho người dùng,  
chúng ta phải giữ nhiều chương trình trong bộ nhớ. Nhiều cơ chế quản lý bộ nhớ khác  
nhau được dùng và tính hiệu quả của các giải thuật phụ thuộc vào từng trường hợp cụ  
thể. Chọn một cơ chế quản lý bộ nhớ cho một hệ thống xác định phụ thuộc vào nhiều  
yếu tố-đặc biệt trên thiết kế phần cứng của hệ thống. Mỗi giải thuật đòi hỏi sự hỗ trợ  
phần cứng của nó.  
Hệ điều hành có nhiệm vụ cho các hoạt động sau khi đề cập tới việc quản lý bộ  
nhớ  
+ Lưu giữ xem phần nào của bộ nhớ hiện đang được sử dụng tiến trình nào  
đang dùng.  
+ Quyết định tiến trình nào được nạp vào bộ nhớ khi không gian bộ nhớ trở  
nên sẵn sàng.  
+ Cấp phát và thu hồi không gian bộ nhớ khi được yêu cầu.  
17  
3) Quản lý tập tin  
Quản lý tập tin là một trong những thành phần có thể dễ thấy nhất của hệ điều  
hành. Máy tính có thể lưu thông tin trên nhiều loại phương tiện lưu trữ vật lý khác  
nhau. Băng từ, đĩa từ, đĩa quang là những phương tiện thông dụng nhất. Mỗi phương  
tiện này có đặc điểm và tổ chức riêng. Mỗi phương tiện được điều khiển bởi một thiết  
bị, như một ổ đĩa hay ổ băng từ. Các thuộc tính này bao gồm tốc độ truy xuất, dung  
lượng, tốc độ truyền dữ liệu và phương pháp truy xuất (tuần tự hay ngẫu nhiên).  
Hệ điều hành cung cấp khung nhìn logic của việc lưu trữ thông tin. Hệ điều  
hành trừu tượng hoá các thuộc tính vật lý của các thiết bị lưu trữ để định nghĩa một  
đơn vị lưu trữ logic là các tập tin. Hệ điều hành ánh xạ các tập tin trên các thiết bị lưu  
trữ vật lý, và truy xuất các tập tin này bằng các thiết bị lưu trữ.  
Tập tin là tập hợp thông tin có quan hệ với nhau và được định nghĩa bởi người  
khởi tạo. Thông thường, các tập tin biểu diễn chương trình và dữ liệu. Các tập tin dữ  
liệu có thể là chữ cái, chữ số... Các tập tin có dạng bất kỳ (thí dụ, các tập tin văn bản)  
hay có thể được định dạng có cấu trúc (thí dụ, các trường cố định). Một tập tin chứa  
một chuỗi các bits, bytes, các dòng hay các mẫu tin mà ý nghĩa của nó được định  
nghĩa bởi người tạo. Khái niệm tập tin là một khái niệm thông dụng trong máy tính.  
Các tập tin được tổ chức trong các thư mục để dễ quản lý và sử dụng. Ngoài ra,  
khi nhiều người dùng cúng truy xuất tập tin, hệ điều hành phái kiểm soát được người  
dùng nào được phép truy xuất, và truy suất ở giới hạn nào (đọc, ghi, xoá,…).  
Hệ điều hành có nhiệm vụ thực hiện các nhiệm vụ sau trong việc quản lý hệ  
thống tập tin:  
+ Tạo và xoá tập tin  
+ Tạo và xoá thư mục  
+ Hỗ trợ các hàm nguyên thuỷ để thao tác tập tin và thư mục  
+ Ánh xạ các tập tin trên các thiết bị lưu trữ phụ  
+ Sao lưu dự phòng tập tin trên các phương tiện lưu trữ ổ định  
4) Quản lý hệ thống xuất/nhập  
Một trong những mục đích của hệ điều hành là che giấu sự khác biệt của các  
thiết bị phần cứng từ người dùng. Thí dụ, trong UNIX sự khác biệt của các thiết bị  
18  
xuất/nhập bị che giấu từ phần chính của hệ điều hành bởi các hệ thống con xuất/nhập.  
Hệ thống xuất/nhập thực hiện:  
+ Quản lý bộ nhớ chứa vùng đệm (buffering), lưu trữ (caching) và spooling  
(vùng chứa).  
+ Tạo giao diện trình điều khiển thiết bị chung.  
+ Quản lý chương trình điều khiển cho các thiết bị xác định.  
Chỉ chương trình điều khiển thiết bị biết sự khác biệt của các thiết bị xác định  
mà nó được gán  
5) Quản lý hệ thống lưu trữ phụ  
Mục đích chính của một hệ thống máy tính là thực hiện các chương trình.  
Những chương trình này phải truy xuất dữ liệu nằm trong bộ nhớ chính khi tiến trình  
thực hiện. Vì bộ nhớ chính thường nhỏ để lưu tất cả dữ liệu và chương trình và vì dữ  
liệu sẽ bị xoá khi mất điện, do đó hệ thống máy tính phải cung cấp hệ thống lưu trữ  
phụ. Hầu hết các hệ thống máy tính hiện đại dùng các ổ đĩa như phương tiện lưu trữ  
phụ cho cả chương trình và dữ liệu. Hầu hết các chương trình – gồm trình biên dịch,  
trình dịch hợp ngữ, thủ tục sắp xếp, trình soạn thảo và trình định dạng – được lưu trên  
đĩa cho tới khi được nạp vào trong bộ nhớ và sau đó sử dụng đĩa trong quá trình xử lý.  
Do đó, quản lý tốt việc lưu trữ đĩa có vai trò quan trọng đối với một hệ thống máy  
tính.  
Hệ điều hành có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động sau trong việc quản lý đĩa:  
+ Quản lý không gian trống  
+ Cấp phát lưu trữ  
+ Lập lịch đĩa  
Vì lưu trữ phụ được dùng thường xuyên nên nó phải được thiết kế và sử dng  
một cách hiệu quả. Tốc độ toàn bộ của các thao tác của máy tính liên quan đến tốc độ  
hệ thống đĩa và các giải thuật thao tác trên hệ thống đó.  
6) Quản lý hệ thống mạng  
Hệ phân tán là tập hợp các bộ xử lý, chúng không chia sẻ bộ nhớ, các thiết bị  
ngoại vi hay đồng hồ. Thay vào đó mỗi bộ xử lý có riêng bộ nhớ, đồng hồ, các bộ xử  
lý giao tiếp với nhau thông qua các hệ thống giao tiếp như bus tốc độ cao hay mạng.  
Các bộ xử lý trong hệ thống phân tán khác nhau về kích thước và chức năng. Chúng  
19  
có thể chứa các bộ vi xử lý, trạm làm việc, máy vi tính và các hệ thống máy tính  
thông thường.  
Các bộ xử lý trong hệ thống được nối với nhau thông qua mạng truyền thông  
có thể được cấu hình bằng nhiều cách khác nhau. Mạng có thể được nối kết một phần  
hay toàn bộ. Thiết kế mạng truyền thông phải xem xét vạch đường thông điệp và các  
chiến lược nối kết, các vấn đề tương tranh hay bảo mật.  
Hệ thống phân tán tập hợp những hệ thống vật lý riêng lẻ, có thể có kiến trúc  
không đồng nhất thành một hệ thống chặt chẽ, cung cấp tới người sử dụng với truy  
xuất tới các tài nguyên khác nhau mà hệ thống duy trì. Truy xuất tới các tài nguyên  
chia sẻ cho phép tăng tốc độ tính toán, chức năng, khả năng sẵn sàng của dữ liệu, độ  
tin cậy. Hệ điều hành thường tổng quát hoá việc truy xuất mạng như một dạng truy  
xuất tập tin, với những chi tiết mạng được chứa trong chương trình điều khiển thiết bị  
của giao tiếp mạng. Các giao thức tạo một hệ thống phân tán có thể có một ảnh hưởng  
to lớn trên tiện ích và tính phổ biến của hệ thống đó. Sự đổi mới của World Wide  
Web đã tạo ra một phương pháp truy xuất mới cho thông tin chia sẻ. Nó đã cải tiến  
giao thức truyền tập tin (File Transfer Protocol - FTP) và hệ thống tập tin mạng  
(Network File System - NFS) đã có bằng cách xoá yêu cầu cho một người dùng đăng  
nhập trước khi người dùng đó được phép dùng tài nguyên ở xa. Định nghĩa một giao  
thức mới, giao thức truyền siêu văn bản (hypertext transfer protocol - http), dùng  
trong giao tiếp giữa một trình phục vụ web và trình duyệt web. Trình duyệt web chỉ  
cần gửi yêu cầu thông tin tới một trình phục vụ web của máy ở xa, thông tin (văn bản,  
đồ hoạ, liên kết tới những thông tin khác) được trả về.  
7) Hệ thống bảo vệ  
Nếu một hệ thống máy tính có nhiều người dùng và cho phép thực hiện đồng  
thời nhiều tiến trình, thì các tiến trình phải được bảo vệ từ các hoạt động của tiến trình  
khác. Với mục đích này, hệ điều hành phải tạo ra các cơ chế đảm bảo cho các tập tin,  
phân đoạn bộ nhớ, CPU, và các tài nguyên khác có thể được điều hành chỉ bởi các  
tiến trình có quyền phù hợp.  
Thí dụ, phần cứng phân định địa chỉ bộ nhớ sao cho một tiến trình chỉ có thể  
thực hiện trong không gian địa chỉ của chính nó. Bộ lập lịch đảm bảo rằng các tiến  
trình được cấp phát quyền sử dụng CPU và sau đó phải trả lại điều khiển. Người dùng  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 154 trang yennguyen 08/04/2022 7360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Nguyên lý hệ điều hành (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_nguyen_ly_he_dieu_hanh_phan_1.pdf