Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH  
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN  
………………………………..  
TẬP BÀI GIẢNG  
KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU  
LẬP LUẬN  
TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ  
TP. Hồ Chí Minh - 2011  
1
BIÊN SOẠN  
TS. LÊ THỊ HỒNG VÂN (chủ biên)  
ThS. PHẠM THỊ NGỌC THỦY  
2
LỜI NÓI ĐẦU  
Nhằm mục đích đối mới và nâng cao chất lượng đào tạo để thực hiện mục tiêu gắn  
đào tạo với nhu cầu thực tiễn, từ năm học 2011-2012 trường Đại học Luật TP. Hồ Chí  
Minh đưa vào giảng dạy môn học Kỹ năng nghiên cứu lập luận để bổ sung những  
kiến thức thuộc về nhóm “kỹ năng mềm”, đó kỹ năng nghiên cứu khoa học, kỹ năng  
thuyết trình, kỹ năng lập luận, kỹ năng tư duy phản biện kỹ năng tranh luận. Mục  
tiêu của môn học nhằm giúp sinh viên rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ, tư duy logic và  
khả năng lập luận, hùng biện để thể nghĩ một cách sâu sắc, viết một cách chính xác,  
nói một cách thuyết phục. Đây những kỹ năng rất cần thiết để đem lại cho mỗi người  
sự thành công trong các công việc học tập, nghiên cứu cũng như các hoạt động giao  
tiếp hội và các ngành nghề chuyên môn đặc thù, đặc biệt đối với nghề Luật - nơi  
mà các năng lực tư duy, ngôn ngữ và “tài ăn nói” có vai trò tiên quyết đối với sự thành  
bại của công việc sự nghiệp.  
Với mục tiêu ấy, nội dung của Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu lập luận được  
biên soạn gồm các chương:  
Chương 1: Kỹ năng nghiên cứu khoa học  
Chương 2: Kỹ năng thuyết trình  
Chương 3: Kỹ năng lập luận  
Chương 4: Kỹ năng tranh luận phản biện  
Các chương được phân công biên soạn cụ thể nsau:  
Chương 1, 2, 4: TS. Lê Thị Hồng Vân  
Chương 3: TS. Lê Thị Hồng Vân và Ths. Phạm Thị Ngọc Thủy.  
Mỗi chương tuy có nhiệm vụ rèn luyện những kỹ năng khác nhau để hướng đến  
những mục tiêu cụ thể tương đối độc lập, nhưng giữa chúng đều sự kết nối, liên  
thông trên nền tảng của các kỹ năng tư duy và ngôn ngữ, đó suy nghĩ – nói – viết.  
Nội dung của các chương được biên soạn dựa trên sự vận dụng tích hợp kiến thức của  
nhiều môn khoa học như: Ngôn ngữ học, Tiếng Việt thực hành, Phương pháp luận  
nghiên cứu khoa học, Logic học, Tư duy phản biện, Tâm lý học, Văn hóa Việt Nam,  
cùng với các kỹ năng giao tiếp sư phạm, kỹ năng lập luận, tranh luận, phản biện. Các  
kiến thức kỹ năng ấy đã được vận dụng, chuyển hóa thành các nhóm kỹ năng cụ thể  
trong mỗi chương.  
Việc nắm vững thực hành vận dụng tốt các kỹ năng này trong thực tiễn sẽ phục  
vụ thiết thực trước hết cho các hoạt động học tập, nghiên cứu của sinh viên, giúp thực  
3
hiện tốt các bài thảo luận, thuyết trình, tranh luận, viết tiểu luận, luận văn tốt nghiệp,  
thực hiện các đề tài khoa học cũng như quá trình tự học, tnghiên cứu lâu dài.  
Đối với các ngành nghề đặc thù như nghề báo, nghề giáo, nghề ngoại giao, chính  
khách… thì việc nắm vững thực hành tốt các kỹ năng này là điều kiện tiên quyết để  
đem lại sự thành công trong sự nghiệp cuộc sống, nhất là trong xã hội hiện đại, khi  
sự cạnh tranh đang ngày càng trở nên gay gắt khốc liệt trong mọi lĩnh vực.  
Đặc biệt đối với nghề Luật, khi mà công việc chuyên môn phải thực hiện thường  
ngày là các cuộc đấu trí, đấu khẩu để giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa phải/ trái,  
đúng / sai liên quan đến số phận, thậm chí quyết định cả vận mạng con người thì việc  
nắm vững vận dụng thuần thục các kỹ năng lập luận, tranh luận, phản biện để có  
được khả năng lập luận sắc sảo và tài hùng biện thuyết phục những đòi hỏi tối cần  
thiết để thể tồn tại khẳng định chỗ đứng trong nghề.  
được biên soạn lần đầu, lại phải tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực chuyên môn  
với nhiều nhóm kỹ năng khác nhau, do đó Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu lập  
luận chắc chắn skhông tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế.  
Rất mong được các nhà chuyên môn và bạn đọc quan tâm đóng góp ý kiến để lần  
xuất bản sau, Tập bài giảng được bổ sung, chỉnh lý hoàn thiện hơn.  
Thư từ, ý kiến đóng góp xin được gửi tới: Phòng Đào tạo, Trường Đại học Luật  
TP. Hồ Chí Minh – Số 2, Nguyễn Tất Thành, Quận 4, TP. Hồ Chí Minh; Điện thoại:  
08.39400.723 – 08.37266.333  
TÁC GIẢ  
4
CHƯƠNG 1  
KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  
Mục đích yêu cầu:  
+ Về nội dung kiến thức:  
- Hiểu được tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học và các kiến thức tổng quan về  
nghiên cứu khoa học.  
- Nắm được yêu cầu và các bước thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học.  
- Nắm được các thao tác cụ thể để thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học.  
+ Về kỹ năng:  
- Rèn luyện phương pháp và kỹ năng tư duy khoa học.  
- Rèn luyện các kỹ năng thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học.  
- Giúp sinh viên hình thành thói quen và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu để nâng cao  
chất lượng của việc học ở đại học, đồng thời khơi nguồn niềm đam mê nghiên cứu,  
giúp họ tạo lập thói quen tự nghiên cứu lâu dài.  
NỘI DUNG BÀI HỌC  
Khác với việc học ở phổ thông, việc học ở bậc đại học với đúng nghĩa phải là quá  
trình tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi kiến thức để đáp ứng được các yêu cầu nhận thức  
bậc cao. Nếu yêu cầu nhận thức ở bậc học phổ thông chỉ cần dừng lại ở cấp độ bậc 1:  
biết hiểu, thì ở bậc đại học không chỉ dừng lại ở đó mà còn cần phải tiến đến các nấc  
thang nhận thức cao hơn, đó nhận thức bậc 2: phân tích, tổng hợp, giải; bậc 3:  
đánh giá, phê phán, liên hệ vận dụng vào thực tiễn.  
Để đạt được các mức độ nhận thức bậc 2 và 3 đòi hỏi việc học ở đại học phải gắn  
liền với các hoạt động nghiên cứu khoa học để rèn luyện tư duy khoa học cũng ncác  
kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, đó những kỹ năng bất cứ sinh viên đại học nào  
cũng cần phải có. Sẽ không có những nhà khoa học, cũng như không có những khám  
phá, những phát minh khoa học trong tương lai, nếu không có sự khởi đầu bằng việc  
trang bị những kỹ năng nền tảng cũng như khơi gợi niềm say mê với công việc tìm tòi  
nghiên cứu từ lúc còn là sinh viên trên giảng đường.  
Hoạt động nghiên cứu khoa học, vậy một hoạt động có ý nghĩa quan trọng,  
được thực hiện thường xuyên, liên tục và xuyên suốt, gắn liền với nhiệm vụ học tập  
của mỗi sinh viên trong quá trình thực hiện các môn học. Các bài tập thực hành nghiên  
5
cứu khoa học ở đại học thường được thực hiện dưới các dạng như: viết bài tham luận  
về một vấn đề để trình bày trong một buổi thảo luận nhóm, lớp; viết tóm tắt nội dung  
một bài báo khoa học hay một cuốn sách; viết một bài tiểu luận cho bài tập tháng. Ở  
cấp độ cao hơn, đó việc tập làm một đề tài nghiên cứu theo nhóm, viết bài tập niên  
luận, khoá luận tốt nghiệp...  
Tuy nhiên, phần đông sinh viên còn chưa được những kiến thức cơ bản về  
nghiên cứu khoa học. vậy nội dung chương này sẽ trang bị các kiến thức tổng quan  
về nghiên cứu khoa học cũng như qui trình và các kỹ năng để thực hiện một đề tài  
nghiên cứu khoa học.  
1. Tổng quan về nghiên cứu khoa học  
1.1.Khái niệm về nghiên cứu khoa học  
1.1.1.  
Khái niệm khoa học  
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa khoa học là “hệ thống tri thức tích lũy trong quá  
trình lịch sử được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của  
thế giới bên ngoài cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có  
khả năng cải tạo thế giới hiện thực”.1  
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, khoa học là: “hệ thống tri thức về tự  
nhiên, xã hội duy, được tích luỹ trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn,  
được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Nhiệm vụ của khoa học là  
phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện tượng, sự vật, quá trình, từ đó dự  
báo về sự vận động, phát triển của chúng, định hướng cho hoạt động của con người.  
Khoa học giúp cho con người ngày càng có khả năng chinh phục tự nhiên và xã hội.  
Khoa học vừa một hình thái ý thức hội vừa một dạng hoạt động, một công cụ  
nhận thức”.2  
Như vậy, trong khái niệm khoa học bao gồm hai phương diện: hoạt động khoa học  
tri thức khoa học. Hoạt động khoa học là quá trình áp dụng các ý tưởng, nguyên lý  
phương pháp khoa học để nghiên cứu, tìm tòi để khám phá ra những tri thức mới về  
tự nhiên và xã hội, để tả, giải thích hay dự báo về các sự vật, hiện tượng trong thế  
giới khách quan.  
Sản phẩm của các hoạt động nghiên cứu khoa học là các tri thức khoa học. Tri thức  
khoa học những hiểu biết về bản chất và qui luật của tự nhiên, xã hội mà con người  
1 Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2002.  
2 http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn  
6
được thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, được khái quát dưới dạng thuyết,  
đó là các khái niệm, phán đoán, học thuyết. Như vậy, trong kho tàng tri thức của nhân  
loại gồm hai hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.  
- Tri thức kinh nghiệm những hiểu biết được tích lũy bằng con đường nhận thức  
cảm tính, trực tiếp qua các hoạt động thực tiễn hàng ngày nên thường rời rạc, tản mạn,  
chỉ nhận diện đối tượng ở những biểu hiện bề ngoài, không có khả năng tiếp cận sâu  
vào bản chất, cũng như chưa khái quát được các thuộc tính, các qui luật cũng như các  
mối quan hệ bên trong của đối tượng.  
- Tri thức khoa học mặc dù có cơ sở từ các tri thức kinh nghiệm, dựa trên các kết  
quả quan sát, thu thập các thông tin từ các sự kiện, hiện tượng xảy ra ngẫu nhiên trong  
thực tế, nhưng bằng tư duy khoa học bằng các phương pháp khoa học, các thông tin  
ấy được tổ chức thành hệ thống, được giải từ bản chất, được khái quát và đúc kết  
thành các qui luật dưới dạng các công thức, khái niệm, định lý, định luật, phạm trù, học  
thuyết khoa học…. từ đó hình thành nên các bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội.  
1.1.2. Khái niệm tư duy khoa học  
Mọi hoạt động của con người đều được điều khiển bởi tư duy. Để đáp ứng những  
hoạt động thực tiễn với những đặc trưng khác nhau, duy của con người cũng tồn tại  
với 3 kiểu dạng với những đặc điểm ưu trội khác nhau:  
+ duy hành động trực quan (còn gọi duy cảm tính hay duy thực tiễn  
hàng ngày): là dạng thức tư duy gắn liền với các đối tượng cụ thể, trực tiếp, giúp ta  
nhận thức được từng mặt, từng khía cạnh riêng rẽ gắn liền với những hình ảnh bề ngoài  
về đối tượng mà không thấy được bản chất và các qui luật phát triển của nó. Dạng thức  
duy này điều khiển các hoạt động thực tiễn hàng ngày của con người.  
+ duy hình tượng - cảm tính (còn gọi duy nghệ thuật - duy hình tượng):  
dạng thức tư duy trong đó sự nhận thức về đối tượng không tách rời giữa những biểu  
hiện cụ thể - cảm tính, ngẫu nhiên, cá biệt, của đối tượng với tính chỉnh thể, toàn vẹn,  
tính phổ biến, cái khái quát về đối tượng, trên cơ sở của sự thống nhất, hòa quyện giữa  
lý trí và tình cảm. Đây dạng thức tư duy điều khiển lĩnh vực hoạt động nghệ thuật  
của con người.  
+ duy khái niệm - lôgic (còn gọi duy logic/ duy khoa học): dạng thức  
duy có khả năng phản ánh gián tiếp thực tại khách quan trên cơ sở của sự trừu tượng  
hóa, khái quát hóa về đối tượng thông qua các khái niệm, công thức, phạm trù, phán  
đoán, suy luận, thuyết, giả thuyết…, nhờ đó thể khám phá được những mối liên  
7
hệ bên trong có tính bản chất cũng như những qui luật tồn tại và phát triển tất yếu của  
hiện thực khách quan.  
Ba dạng thức tư duy này đều ở mỗi người với những mức độ biểu hiện ưu trội  
khác nhau, chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng, bổ sung cho  
nhau để đem lại cho con người khả năng nhận thức, khám phá toàn diện về thực tại  
khách quan, trong đó tư duy khoa học cơ sở để thực hiện các hoạt động nghiên cứu  
khoa học, nhằm giúp con người tiếp cận sâu vào bản chất của thế giới để khái quát các  
qui luật phổ quát và tất yếu của các đối tượng.  
1.1.3.  
Khái niệm nghiên cứu khoa học  
- Khái niệm nghiên cứu (research): là “xem xét, tìm hiểu kĩ lưỡng để nắm vững vấn  
đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết mới”.1  
- Tác giả Vũ Cao Đàm trong Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học  
định nghĩa: Nghiên cứu khoa học sự phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức  
khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới phương tiện kĩ thuật mới  
để làm biến đối sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người2  
Từ các định nghĩa trên, có thể xác định đối tượng, nội dung và mục đích của nghiên  
cứu khoa học:  
- Đối tượng của nghiên cứu khoa học thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội) và  
phương pháp nhận thức thế giới khách quan ấy.  
- Nội dung của nghiên cứu khoa học hoạt động của tư duy khoa học kết hợp với  
việc vận dụng các phương pháp, phương tiện khoa học để thu thập thông tin, xử lý  
thông tin trên cơ sở của các phán đoán, phân tích, tổng hợp, khái quát, suy luận để  
khám phá, phát hiện chứng minh sự tồn tại của một chân lý khoa học.  
- Mục đích của nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện ra những tri thức mới, sáng tạo  
những giá trị mới, đề xuất những giải pháp mới để vượt lên những tri thức cũ, bổ sung  
hoặc thay thế những giá trị không còn phù hợp, làm thay đổi nhận thức của con người  
theo hướng tiến bộ hơn, giúp con người ngày càng tiệm cận hơn với chân lý về đối  
tượng. Từ các kết quả nghiên cứu của khoa học để vận dụng vào việc cải tạo thực tiễn,  
đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao hơn của cuộc sống con người.  
1.2. Phân loại khoa học và nghiên cứu khoa học  
1.2.1. Phân loại khoa học  
1 Từ điển Tiếng Việt, sđd.  
2 cao Đàm, Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. GD, 2009 tr. 35  
8
Hiện nay, có nhiều cách phân loại khoa học dựa trên những tiêu chí khác nhau,  
trong đó cách phân loại phổ biến nhất là chia các lĩnh vực khoa học thành ba nhóm cơ  
bản như sau:  
+ Khoa học hội và nhân văn: nghiên cứu về bản chất, các quy luật, sự vận động  
và phát triển của hội duy như triết học, chính trị học, kinh tế học, văn học, văn  
hóa học, mỹ học, tâm lý học, đạo đức học, luật học, giáo dục học, hội học, khảo cổ  
học, sử học,…  
+ Khoa học tự nhiên: nghiên cứu về bản chất, các quy luật về sự vận động và phát  
triển của thế giới tự nhiên như toán học, vật học, hoá học, thiên văn học, sinh vật  
học, sinh lý học...  
+ Khoa học kĩ thuật và công nghệ: nghiên cứu để ứng dụng các thành tựu của khoa  
học tự nhiên vào trong lĩnh vực kĩ thuật - công nghệ nhằm phát minh ra các quy trình  
công nghệ mới, chế tạo ra các loại máy móc, thiết bị mới, sản xuất ra các loại sản phẩm  
vật chất…  
Tuy nhiên, cần phải lưu ý là các cách phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, bởi  
vì các ngành khoa học thường không tồn tại biệt lập, riêng rẽ mà luôn có mối liên hệ  
với nhau, tiếp thu và vận dụng thành quả nghiên cứu của nhau.  
1.2.2.  
Phân loại nghiên cứu khoa học  
Dựa theo những tiêu chí khác nhau, người ta cũng nhiều cách phân loại nghiên  
cứu khoa học khác nhau. Sau đây là các tiêu chí phân loại chủ yếu:  
1.2.2.1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu  
Dựa trên tiêu chí về chức năng nghiên cứu, nghiên cứu khoa học được chia thành 4  
loại:  
- Nghiên cứu tả: là những nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về  
nhận dạng một sự vật, đánh giá một sự vật, hiện tượng.  
- Nghiên cứu giải thích: là những nghiên cứu nhằm giải thích nguồn gốc, cấu trúc,  
quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật.  
- Nghiên cứu giải pháp: là những nghiên cứu nhằm tìm kiếm, sáng tạo các giải pháp  
để khắc phục, nâng cao, phát triển sự vật, sự việc.  
- Nghiên cứu dự báo: là những nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật  
trong tương lai.  
1.2.2.2. Phân loại theo phương thức thu thập thông tin  
Theo tiêu chí này, nghiên cứu khoa học được chia thành 3 loại:  
9
- Nghiên cứu thư viện: là loại nghiên cứu được thực hiện từ nguồn thông tin, tư liệu  
chủ yếu thu thập được từ các loại sách, báo trong đó công bố các công trình nghiên  
cứu, bài viết có liên quan đến vấn đnghiên cứu.  
- Nghiên cứu điền : là loại nghiên cứu được thực hiện chủ yếu dựa vào sự quan  
sát, thu thập thông tin qua thực tế, tại hiện trường, thông qua các phương tiện đo đạc,  
ghi âm, ghi hình, hoặc trò chuyện, phỏng vấn trực tiếp…  
- Nghiên cứu labô (nghiên cứu thực nghiệm): loại nghiên cứu được thực hiện chủ  
yếu trong phòng thí nghiệm với các máy móc và phương tiện thực nghiệm để mô  
phỏng các đối tượng và các quan hệ tương tác giữa chúng, từ đó rút ra các kết luận.  
1.2.2.3. Phân loại theo mục tiêu ứng dụng  
Theo tiêu chí này thì nghiên cứu khoa học được phân ra 4 loại:  
- Nghiên cứu cơ bản: loại hình nghiên cứu này có mục tiêu là tìm tòi, sáng tạo ra  
những tri thức mới, những giá trị mới, đi sâu khám phá bản chất và quy luật vận động  
và phát triển của thế giới nên sản phẩm của loại nghiên cứu này không có khả năng  
ứng dụng trực tiếp vào một lĩnh vực của đời sống mà có vai trò làm nền tảng tri thức  
cho các quá trình nghiên cứu ứng dụng tiếp theo.  
- Nghiên cứu ứng dụng: loại hình nghiên cứu này dựa trên những thành tựu của  
nghiên cứu cơ bản để vận dụng vào trong các lĩnh vực của khoa học nhằm phát hiện ra  
những nguyên lý, những qui luật mới, tìm ra những giải pháp hữu ích, những quy trình  
công nghệ những sáng chế mới để thúc đẩy sự tiến bộ hội.  
- Nghiên cứu triển khai: loại hình nghiên cứu này có mục tiêu là tìm khả năng áp  
dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất đời sống hội  
nhằm đem lại những thành quả trực tiếp làm thay đổi các hiện trạng của đời sống xã  
hội.  
- Nghiên cứu dự báo: là loại nghiên cứu mục đích không phải đưa đến những  
kết quả trực tiếp, hữu dụng tại thời điểm nghiên cứu chỉ dự báo xu thế phát triển  
của đối tượng trong tương lai.  
Tuy nhiên, sự phân loại theo các tiêu chí trên đây chỉ hoàn toàn là tương đối dựa  
trên tính ưu trội của mỗi tiêu chí, còn trong thực tế thường luôn có sự kết hợp, vận  
dụng các dạng thức nghiên cứu khác nhau ngay trong một công trình nghiên cứu nhằm  
đạt được những hiệu quả tối ưu.  
1.3. Yêu cầu của nghiên cứu khoa học  
1.3.1.  
Yêu cầu đối với người nghiên cứu  
10  
- Có kiến thức đối với lĩnh vực cần nghiên cứu.  
- Có duy khoa học, có tinh thần khách quan, khoa học khi xem xét, đánh giá đối  
tượng, tránh thiên kiến chủ quan.  
- Có duy phản biện, tức khả năng xem xét vấn đề từ nhiều phía, nhiều chiều.  
- Có duy sáng tạo: nghiên cứu khoa học nhằm mục đích để tìm ra cái mới, bởi  
vậy một trong những yêu cầu quan trọng đối với người nghiên cứu khoa học phải có  
khả năng sáng tạo, tìm tòi, phát hiện cái mới, không chấp nhận, không bằng lòng, an  
phận với những đã có, đã biết.  
- Có niềm đam mê nghiên cứu tìm tòi, khám phá cái mới; đức tính kiên trì, chịu  
khó, dám dấn thân, dám chấp nhận rủi ro, bởi nghiên cứu khoa học là công việc đầy  
cam go, thử thách chứ không phải là con đường “rải thảm đỏ”.  
- Có bản lĩnh khoa học và chính kiến cá nhân để bảo vệ quan điểm lập trường  
khoa học của mình một khi đã những cơ sở khách quan và niềm tin vào các cơ sở  
ấy.  
- Có đạo đức khoa học, đó phẩm chất trung thực và lòng tự trọng để không đạo  
văn, không lợi dụng thành quả lao động của người khác.  
1.3.2.  
Yêu cầu đối với sản phẩm khoa học  
Một sản phẩm nghiên cứu khoa học chỉ có giá trị khi nó đáp ứng được các yêu cầu  
cơ bản sau đây:  
- Tính sáng tạo: giá trị của một sản phẩm nghiên cứu khoa học được đánh giá trước  
hết phục thuộc vào những tri thức mới, những sáng tạo, phát minh mới mà nó đem lại.  
Mục đích của nghiên cứu khoa học là khám phá, phát hiện bản chất, quy luật của thế  
giới tự nhiên và xã hội trước đó con người chưa biết hoặc biết chưa toàn diện và  
thấu đáo, sự bổ sung thêm những tri thức mới để làm giàu có thêm kho tàng tri thức  
của nhân loại, cho nên, ở những mức độ khác nhau, dù ít dù nhiều, một công trình  
nghiên cứu khoa học chỉ có giá trị thực sự khi nó đem lại những thông tin mới, góp  
phần thúc đẩy nhận thức của con người tiến thêm một bước, làm thay đổi nhận thức và  
hành động của con người.  
- Tính khách quan, chính xác: thông tin trong khoa học phải có tính khách quan,  
tính chính xác, tức phải phản ánh đúng bản chất và qui luật khách quan của đối  
tượng thì mới có giá trị độ tin cậy. Tiêu chí để đánh giá, kiểm chứng tính chính xác  
độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu tùy thuộc vào tính chất đặc thù của mỗi ngành  
khoa học cũng như mỗi đối tượng nghiên cứu cụ thể (khoa học hội, khoa học tự  
11  
nhiên, khoa học công nghệ là không giống nhau), tuy nhiên nó đều được phản ánh  
trước hết thông qua việc vận dụng các phương pháp, qui trình, thao tác nghiên cứu đảm  
bảo tính khách quan và phù hợp. vậy, để chứng minh tính khách quan, khoa học và  
chính xác của kết quả nghiên cứu, khi báo cáo, công bố kết quả nghiên cứu đòi hỏi  
người nghiên cứu cũng phải trình bày cả quá trình tiến hành công việc của mình  
(phương pháp, qui trình, thao tác nghiên cứu) để đưa đến kết quả ấy, bởi nếu những  
yếu tố này không đảm bảo tính khách quan, khoa học thì kết quả nghiên cứu sẽ không  
độ tin cậy.  
- Tính lý luận thực tiễn: sản phẩm nghiên cứu khoa học phải có ý nghĩa luận  
thực tiễn (hoặc chí ít cũng một trong hai phương diện ấy). Điều này có nghĩa là,  
một sản phẩm của nghiên cứu khoa học phải đem lại, hoặc những nhận thức mới về  
mặt luận để thúc đẩy các nhận thức luận tiến thêm một bước, hoặc phải giải  
quyết được một (hay một số) vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra, hoặc cả hai  
phương diện luận thực tiễn để làm thay đổi nhận thức và hành động của hội  
theo hướng tích cực hơn.  
2. Các bước thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học  
Do mỗi ngành khoa học đối tượng nghiên cứu khác nhau, và do đó các phương  
pháp nghiên cứu cũng như các bước tiến hành cụ thể cũng không giống nhau. Trong  
phạm vi nội dung chương trình môn học này chỉ hướng đến mục tiêu cụ thể là cung cấp  
các kiến thức kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đối tượng là sinh viên ngành Luật  
nên chúng tôi chỉ giới hạn trình bày qui trình cũng như các thao tác cụ thể cho việc  
thực hiện một đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học hội.  
2.1. Cách tìm kiếm, lựa chọn đề tài và đặt tên đề tài nghiên cứu  
2.1.1.  
Khái niệm đề tài khoa học và cách tìm kiếm, lựa chọn đề tài  
- Đề tài khoa học một vấn đcó ý nghĩa khoa học mà cho đến thời điểm được lựa  
chọn để nghiên cứu thì đó vẫn một câu hỏi đang bỏ ngỏ chưa được giải quyết, tức  
chưa có công trình nào làm sáng tỏ. Đó vấn đề khoa học người nghiên cứu quan  
tâm và tìm cách giải đáp trong phạm vi công trình nghiên cứu của mình, và khi giải  
đáp được vấn đề đó thì khoa học sẽ tiến thêm một bước.  
+ Cách tìm đề tài nghiên cứu:  
- Đối với các nhà khoa học: một đề tài nghiên cứu chỉ thể nảy sinh trong quá  
trình tiếp cận nhiều tài liệu khoa học liên quan, là kết quả của sự tìm tòi, suy ngẫm,  
phân tích, liên hệ, khái quát, … thì mới tìm đến được cái điểm mà khoa học còn dừng  
12  
lại; đề tài cũng thể nảy sinh từ các cuộc hội thảo khoa học, khi phát hiện được  
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng còn bỏ ngỏ, những vấn đề chưa được giải quyết  
thấu đáo, những tranh luận chưa đi đến thống nhất; với kinh nghiệm sự nhạy cảm  
khoa học, các nhà khoa học cũng thể tìm thấy những gợi ý cho một đề tài nghiên  
cứu từ một tình huống vấn đề trong hoạt động thực tiễn, khi gặp những vướng mắc  
chưa được tháo gỡ, hay từ việc phát hiện những bất ổn trong các quan niệm và cách  
giải quyết đã có v.v…  
- Trong trường đại học, việc làm các bài tập dưới dạng tiểu luận, đề tài nghiên cứu  
khoa học sinh viên, khóa luận hay luận văn cao học chỉ là công việc tập nghiên cứu  
khoa học dưới sự hướng dẫn của giảng viên, cho nên việc tìm kiếm đề tài thuận lợi hơn  
nhiều. Đó thường là các đề tài gắn với nội dung kiến thức của các môn học qua sự gợi  
ý, định hướng của giảng viên.  
Tóm lại, tìm đề tài nghiên cứu tức là tìm ra cái điểm nằm trên ranh giới giữa cái đã  
biết và cái chưa biết của khoa học.  
+ Cách lựa chọn đề tài nghiên cứu: việc lựa chọn được một đề tài nghiên cứu phù  
hợp yếu tố có ý nghĩa tiên quyết đối với sự thành công của một công trình nghiên  
cứu. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó rất  
nhiều tiêu chí cần phải đáp ứng đó là:  
- Tính mới và tính kế thừa: khái niệm về tính mới của đề tài cần được hiểu rằng, đó  
không nhất thiết phải một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, một lĩnh vực chưa ai từng khai  
phá, mà ngay ở những vấn đề đã được nhiều người “cày xới” vẫn thể còn những  
phương diện có ý nghĩa nhưng lại chưa được quan tâm hoặc chưa được giải quyết một  
cách rốt ráo. Thông thường, các đề tài nghiên cứu hay được lựa chọn những vấn đề  
nằm ở ranh giới giữa cái đã biết (đã được giải quyết) và cái chưa biết (chưa được giải  
quyết); nghĩa là, một mặt phải vừa không trùng lặp hoàn toàn với các công trình  
nghiên cứu trước đó, nhưng đồng thời lại cũng không phải bắt đầu từ mảnh đất trống,  
từ con số không, mà trên cơ sở kế thừa những thành quả của người đi trước, phải  
tiếp cận vấn đề từ một phương diện mới để từ đó thể hiện rằng công trình của mình là  
một bước tiến mới so với các công trình trước đó. Đó cũng giá trị khoa học của đề  
tài.  
Trong trường hợp đối với đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở dạng tiểu luận,  
khóa luận thì việc đòi hỏi cái mới chỉ rất khiêm tốn, chủ yếu chỉ ở các mức độ: tả,  
13  
nhận diện, hệ thống hóa, tổng hợp, sắp xếp, phân tích các kết quả đã có, đề xuất kiến  
nghị, giải pháp…  
dụ:  
- Mô tả, nhận diện đặc điểm, thực trạng:  
* Quyền được chết – Lý luận thực tiễn  
* Công tác kiểm tra, xử văn bản quy phạm pháp luật của Bộ pháp  
* Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND cấp xã  
(qua thực tiễn ở một địa phương )  
* Pháp luật lao động Việt Nam về lao động nữ - Thực trạng áp dụng tại các doanh  
nghiệp  
- Hệ thống hóa, tổng hợp, sắp xếp lại, phân tích những kết quả nghiên cứu đã có  
trước đó vcùng một vấn đề, trên cơ sở đó để khẳng định lại một cách có hệ thống các  
kết quả nghiên cứu đã có:  
* Hình thức Nhà nước ở các quốc gia phương Đông cổ đại  
* Hình thức pháp luật phong kiến Việt Nam  
- Đề xuất kiến nghị, giải pháp:  
* Ngôn ngữ pháp lý trong văn bản Nhà nước thực trạng kiến nghị  
* Chế độ pháp lý về cho thuê hàng hoá thương mại thực trạng hướng hoàn  
thiện  
* Những biện pháp chống phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam – thực trạng và  
kiến nghị  
* Quản chất thải nguy hại tại Việt Nam – thực trạng hướng hoàn thiện  
* “Quy hoạch treo” – thực trạng hướng giải quyết 1  
Bởi mục đích quan trọng nhất đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên  
chưa phải là khám phá ra cái mới, chỉ tập dượt các thao tác duy khoa học, nắm  
được các bước thực hiện một công trình khoa học cũng như qui củ của một luận văn  
khoa học.  
- Tính thời sự và tính thực tiễn: một đề tài nghiên cứu thực sự có ý nghĩa (tính cấp  
thiết) phải một vấn đề hiện thời hội đang quan tâm, có ý nghĩa thiết thực đối  
với việc giải quyết một vấn đề để đáp ứng được một nhu cầu, đòi hỏi của hội (ở  
1
Các đề tài có đánh dấu * được lấy từ danh mục đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên của các khoa tại trường Đại học  
Luật TP. HCM.  
14  
phạm vi một địa phương, ở tầm quốc gia hoặc thậm chí có thể một vấn đề có tính  
quốc tế).  
- Tính phù hợp và tính khả thi: để một đề tài có tính khả thi thì việc lựa chọn đề tài  
nghiên cứu phải phù hợp với điều kiện tư liệu hiện có, phù hợp với số trang được hạn  
định, với thời gian thực hiện, điều kiện tài chính, phương tiện nghiên cứu, địa bàn khảo  
sát, phương thức đối tượng điều tra, phỏng vấn, phù hợp với mục đích nghiên cứu  
(luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học; đề tài cấp Nhà nước, cấp  
Bộ hay cấp cơ sở; bài đăng báo, tạp chí hay tham luận hội thảo v.v...), và đặc biệt là  
phải phù hợp, vừa sức với năng lực và trình độ của người thực hiện đề tài.  
dụ: Đây một đề tài nghiên cứu phạm vi bao quát quá rộng, không phù hợp  
với năng lực điều kiện nghiên cứu của sinh viên:  
* Kinh tế Việt Nam và kinh tế Trung Quốc: những điểm tương đồng và khác biệt  
* Xây dựng chiến lược thương hiệu quốc gia cho Việt Nam và kế hoạch truyền  
thông cho thương hiệu quốc gia giai đoạn 2011 – 2020  
- Tính hấp dẫn hữu ích đối với bản thân: việc lựa chọn đề tài còn phụ thuộc vào  
sở thích và sở trường cũng như cần liên quan đến phạm vi công việc người nghiên  
cứu đang thực hiện. Đối với sinh viên, nên chọn các đề tài liên quan đến nội dung các  
môn học để thể vận dụng các kiến thức đã học cũng như để mở rộng đào sâu  
thêm kiến thức đã học.  
Tóm lại, việc tìm kiếm lựa chọn đề tài nghiên cứu việc phát hiện ra một vấn đề  
có ý nghĩa mà khoa học chưa giải quyết nhưng mình thấy thể (có điều kiện khả  
năng) giải quyết được. Trong thực tế, có không ít trường hợp, trong quá trình triển khai  
nghiên cứu, đề tài phải điều chỉnh lại vượt quá khả năng của người nghiên cứu.  
Thậm chí, có công trình khoa học chỉ thể tìm cho nó một cái tên chính xác khi công  
trình đã hoàn thành.  
2.1.2.  
Cách đặt tên đề tài nghiên cứu  
- Việc đặt tên đề tài một cách chuẩn xác là rất quan trọng, vì ngay tên đề tài đã  
cần phải chỉ đối tượng phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu trả lời cho câu  
hỏi nghiên cứu cái gì, còn phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn về mặt không gian, thời  
gian và quy mô của vấn đnghiên cứu.  
dụ:  
+ Đề tài xác định thời gian, không gian, phạm vi vấn đề nghiên cứu:  
15  
* So sánh luật Hồng Đức thời thế kỷ XV với pháp Luật phong kiến Trung Quốc  
thời Minh  
* Pháp luật nhà Lê thế kỷ XV trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp  
* Văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay nhìn từ mối quan hệ với văn hóa truyền  
thống  
* Pháp luật thời Sơ (thế kỷ XV) với việc bảo vệ quyền của người phụ nữ - Những  
điểm tiến bộ cần kế thừa  
+ Đề tài xác định rõ không gian, phạm vi vấn đề nghiên cứu mà không xác định  
thời gian:  
* Quyền tự do tôn giáo ở Mỹ một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam  
* Quyền con người quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam  
* Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của Tòa  
án và Trọng tài thương mại tại Việt Nam  
+ Đề tài chỉ xác định phạm vi vấn đề nghiên cứu mà không xác định giới hạn thời  
gian, không gian:  
* Đại thương mại – lý luận thực tiễn  
* Môi giới thương mại – lý luận thực tiễn  
- Tên đề tài phải ngắn gọn, súc tích, ít chữ nhất nhưng chứa đựng nhiều thông tin  
nhất. Ngôn ngữ dùng trong tên đề tài phải rõ ràng, chuẩn xác để chỉ thể được hiểu  
theo một nghĩa duy nhất, tuyệt đối không được tạo khả năng để thể hiểu thành nhiều  
nghĩa.  
dụ:  
* Thủ tục hành chính và vấn đề bảo đảm quyền công dân  
* Văn hóa pháp Luật Việt Nam hiện nay nhìn từ mối quan hệ với văn hóa truyền  
thống  
* Pháp luật về thị trường quyền sử dụng đất thực trạng hướng hoàn thiện.  
- Không nên đặt tên các đề tài dài dòng quá:  
dụ:  
* Những giá trị pháp lý truyền thống cần kế thừa phát triển, những hạn chế cần  
nhận diện, phê phán, loại bỏ về tổ chức chính quyền của Nhà nước phong kiến Việt  
Nam  
* Phân tích và đề nghị các chiến lược để doanh nghiệp thể tồn tại và phát triển  
được trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế  
16  
* Phân tích vai trò của kế toán quản trị trong việc giúp các doanh nghiệp thực hiện  
tốt các thay đổi mang tính chiến lược  
- Không nên đặt tên đề tài nghiên cứu bằng những cụm từ có tính xác định không  
cao về thông tin, như: Vài suy nghĩ về …; Thử bàn về …; Về vấn đề …; Góp phần vào  
v.v…  
Cách đặt tên đề tài với tính mục đích không thật xác định như trên đây chỉ thích hợp  
cho một bài báo chứ không thích hợp cho một công trình khoa học đòi hỏi sự nghiên  
cứu thật sự nghiêm túc và công phu như luận văn, luận án cũng như các công trình  
khoa học khác 1.  
2.2.Thu thập xử lý tài liệu  
2.2.1.  
Thu thập tài liệu nghiên cứu  
2.2.1.1. Mục đích thu thập tài liệu  
Thu thập và nghiên cứu, xử lý tài liệu một công việc quan trọng cần thiết cho  
bất kỳ hoạt động nghiên cứu khoa học nào. Mục đích của việc thu thập và nghiên cứu  
tài liệu nhằm:  
- Có được các luận cứ thuyết thực tiễn để chứng minh cho tính đúng đắn của  
các luận điểm khoa học đề tài cần khẳng định.  
- Trang bị nền tảng kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu, giúp người  
nghiên cứu một cái nhìn bao quát, toàn diện về vấn đề nghiên cứu với những thành  
tựu hạn chế để xác định hơn mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của mình, tránh  
sự trùng lặp với các công trình đã có.  
- Giúp người nghiên cứu nắm được phương pháp tiếp cận mà các công trình nghiên  
cứu trước đó đã thực hiện để tiếp thu và rút kinh nghiệm.  
1 GS. Nguyễn Văn Tuấn (nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan – Úc), đưa ra một số nguyên tắc khi  
đặt tựa đề cho bài báo khoa học như sau:  
1) Nên cố gắng đặt tựa đề với một thông điệp mới. Làm được như thế rất dễ gây sự chú ý của người đọc. dụ: “A novel  
relationship between osteocalcin and diabetes mellitus”, ở đây chữ novel có tác dụng gợi ra một cái mới và làm cho người  
đọc thấy thích thú.  
2) Không nên viết tựa đề theo kiểu phát biểu (statement). Khoa học không có gì là bất biến “sự thật” hôm nay có thể  
sai trong tương lai. Do đó những tựa đề như “Smoking causes cancer” nó chẳng những cho thấy sự ấu trĩ hay ngây thơ  
trong khoa học của tác giả mà còn làm cho người đọc cảm thấy rất khó chịu.  
3) Không bao giờ sử dụng viết tắt trong tựa đề bài báo. Mỗi công trình nghiên cứu thường tập trung vào một vấn đề  
chuyên sâu nào đó, nếu chúng ta sử dụng viết tắt thì chỉ những người trong ngành mới hiểu, còn người ngoài ngành  
không hiểu đó một thiệt thòi cho nghiên cứu của mình.  
4) Không nên viết tựa đề theo kiểu nghịch lí. Những tựa đề nghịch lí là “Yếu A ảnh hưởng xấu đến X, nhưng tác động tốt  
đến Y”. Những tựa đề kiểu này có thể làm cho người đọc khó chịu, và có khi làm lẫn lộn vấn đề của nghiên cứu.  
5) Tựa đề không nên quá dài hay nhiều chữ. Tựa đề nhiều chữ làm khó đọc và làm cho người đọc… dễ quên. Thông  
thường, tác giả nên cố gắng đặt tựa đề dưới 20 chữ. nhiều bài báo mà tựa đề có khi chỉ một chữ! (Nguyễn Văn Tuấn,  
Kỹ năng mềm cho nhà khoa học, Bản tin ĐHQG Nội, số 216, 2009.  
17  
- Tiếp thu các kết quả nghiên cứu của người đi trước làm tiền đề giúp người nghiên  
cứu xây dựng các luận cứ để chứng minh các luận điểm khoa học.  
thể nói, tư liệu đối với người nghiên cứu thể như nước đối với cá. Không  
tư liệu thì người nghiên cứu dù tài giỏi đến mấy cũng đành bó tay. Bởi vậy, ngay ở  
khâu thu thập tài liệu, nếu người nghiên cứu xét thấy không có điều kiện sưu tầm đầy  
đủ các tài liệu hay không có điều kiện thực hiện các hoạt động điều tra, khảo sát thực tế  
để phục vụ cho đề tài thì cần phải cân nhắc lại việc có nên tiếp tục đề tài nghiên cứu  
hay không.  
2.2.1.2. Nguồn thu thập tài liệu  
Trong bối cảnh của sự bùng nổ thông tin hiện nay, có rất nhiều kênh để người  
nghiên cứu thể thu thập tài liệu cũng như nhiều phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như  
máy ghi âm, ghi hình, photocopy, bởi vậy việc thu thập thông tin có nhiều thuận lợi.  
Thông thường, thể thu thập tài liệu nghiên cứu từ các nguồn sau:  
- Các tài liệu khoa học chuyên ngành: sách kinh điển, sách giáo khoa, giáo trình,  
sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành, tập san, luận văn, luận án, các công  
trình khoa học, báo cáo chuyên đề khoa học, kỷ yếu hội thảo trong nước nước  
ngoài…  
- Các số liệu, thông tin thống được thu thập từ các Niên giám thống kê, Chi cục  
thống kê…  
- Các tài liệu lưu trữ, văn kiện, hồ sơ, văn bản luật pháp,… thu thập từ các quan  
quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,…  
- Các thông tin được đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng như:  
truyền hình, truyền thanh, báo chí, Internet,…  
- Đối với các đề tài nghiên cứu mang tính thực tiễn cao thường không thể thiếu các  
luận cứ thực tế, vậy cần phải khảo sát thực tế các đối tượng nghiên cứu bằng cách  
khảo sát đối tượng ngay tại nơi diễn ra những sự việc; thực hiện các trắc nghiệm trên  
đối tượng khảo sát để thu thập thông tin phản hồi; phỏng vấn người am hiểu hoặc liên  
quan đến đề tài; phát phiếu điều tra để thu thập thông tin; tổ chức hội thảo khoa học để  
tham khảo ý kiến các nhà khoa học và chuyên môn…  
Để tránh việc thu thập tài liệu bị phân tán, tản mạn thì người nghiên cứu cần có  
định hướng cho việc tìm kiếm tài liệu theo nguyên tắc ưu tiên từ hẹp đến rộng, từ các  
tài liệu liên quan trực tiếp đến gián tiếp, từ các nguồn thông tin có độ tin cậy cao hơn  
đến thấp hơn… Cụ thể là, hãy bắt đầu từ việc thu thập các thông tin được công bố  
18  
trong các loại sách như: giáo trình, sách chuyên khảo, tạp chí, tập san chuyên ngành  
trong và ngoài nước, các báo cáo khoa học, luận văn, luận án và các loại sách tham  
khảo khác, rồi sau đó mới đến các nguồn thông tin, tư liệu thu thập từ báo chí, internet,  
các băng đĩa ghi âm ghi hình, bản thảo viết tay,…  
2.2.2. Phân loại xử lý tài liệu  
2.2.2.1. Phân loại tài liệu  
Mối đề tài nghiên cứu đòi hỏi các nguồn tư liệu khác nhau, nhiều loại tư liệu khác  
nhau. Sau khi thu thập đủ tài liệu nghiên cứu thì phải phân loại tài liệu để giúp cho  
người nghiên cứu chọn lọc, đánh giá, xử lý và sử dụng tài liệu cho phù hợp với các yêu  
cầu nghiên cứu. thể phân ra 2 dạng tài liệu: tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp.  
+ Tài liệu sơ cấp: là loại tài liệu “thô” được người nghiên cứu tự thu thập qua điều  
tra, phỏng vấn, ghi chép trực tiếp chưa qua xử lý, chưa được phân tích chú giải,  
khái quát.  
+ Tài liệu thứ cấp: là các thông tin, tri thức đã được phân tích, giải thích, bình luận,  
diễn giải qua những nghiên cứu của người khác, đó là các thông tin trong các sách  
chuyên khảo, báo chí, bài viết trên các tập san chuyên đề, tạp chí khoa học, biên bản  
hội nghị, báo cáo khoa học, internet, sách tham khảo, luận văn, luận án, thông tin thống  
kê, hình ảnh, băng đĩa ghi âm ghi hình, các tài liệu - văn thư, bản thảo viết tay,…  
- Để việc tìm kiếm, thu thập liệu thực hiện nhanh, ngýời nghiên cứu cần lập thý  
mục bộ liệt kê các loại sách, báo, tý liệu cần thiết rồi mới tiến hành tìm kiếm.  
- Đặc thù của việc nghiên cứu trong khoa học pháp lý thường thiên về định tính,  
thêm nữa, các số liệu, các thông tin trong thực tiễn đời sống pháp luật thường gắn với  
những tình huống cụ thể, đa dạng, thậm chí là cá biệt, vậy, việc thu thập thông tin  
cũng như việc thống kê, phân loại xử lý thông tin đòi hỏi sự công phu và tỉ mỉ hơn  
nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác.  
2.2.2.2. Xử lý tài liệu nghiên cứu  
- Sau khi đã phân loại các nguồn tài liệu đã thu thập được, người nghiên cứu phải  
tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp thông tin, hệ thống hóa và sắp xếp chúng theo từng  
vấn đề hoặc nhóm vấn đề, ghi chép cẩn thận vào sổ tay (hoặc lưu trong các tệp tin  
trong máy tính) gọi phiếu dữ liệu để làm luận cứ chứng minh cho các luận điểm  
khoa học.  
19  
- Nội dung phiếu dữ liệu bao gồm việc tóm tắt các luận điểm trong tài liệu đã đọc  
kèm theo việc trích dẫn nguyên văn những ý kiến tiêu biểu, xác đáng những nhận  
xét, đánh giá của mình về luận điểm đó.  
- Các thông tin trong phiếu dữ liệu phải được ghi rõ nguồn gốc dữ liệu bao gồm: tên  
tác giả, dịch giả, tên sách hoặc bài báo, tên báo, tạp chí đã đăng, số báo, ngày tháng  
xuất bản, nơi xuất bản, số trang để sau này đưa vào chú thích cũng như lập danh mục  
tài liệu tham khảo được dễ dàng …; với các số liệu điều tra, phỏng vần từ thực tế cũng  
cần phải ghi nguồn cụ thể (đối tượng khảo sát, địa điểm, thời gian điều tra, khảo sát…).  
+ Một số điểm hạn chế của sinh viên trong việc thu thập xử lý thông tin:  
- Do chưa có kinh nghiệm nghiên cứu nên nếu không có sự định hướng, chỉ đường  
của giáo viên hướng dẫn thì sinh viên thường bị “ngộp” giữa một “rừng” tài liệu, bị  
mất phương hướng giữa các “mê lộ” thông tin mà không biết cách chọn lọc, thu thập  
những cần thiết cho mình.  
- Với đại đa số sinh viên, các kỹ năng xử lý, phân loại, hệ thống hóa cũng như các  
kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá tài liệu và còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, thường  
gặp trong các công trình nghiên cứu của sinh viên là sự liệt kê các tư liệu còn ở dạng  
“thô” mà chưa sự phân tích, đánh giá, luận giải thấu đáo bằng quan điểm riêng của  
mình.  
2.3. Xây dựng đề cương nghiên cứu  
Việc lập đề cương cho một công trình nghiên cứu một công việc vô cùng quan  
trọng, phải gồm hai giai đoạn: đề cương sơ lược đề cương chi tiết.  
2.3.1.  
Đề cương sơ lược  
Đề cương sơ lược bộ khung, là bản thiết kế sơ lược, dựa trên trực giác khoa học  
và kinh nghiệm đphác thảo ra các chương với các luận điểm được dự kiến. Đây chỉ là  
đề cương có tính chất định hướng cho kế hoạch nghiên cứu cũng như làm cơ sở để thu  
thập các nguồn tư liệu, vậy đề cương dự kiến này có thể bị thay đổi, điều chỉnh sau  
khi công việc thu thập xử tư liệu đã cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, với các nhà  
khoa học tài năng và giàu kinh nghiệm thì đề cương dự kiến này thường gần đúng  
với đề cương chính thức.  
2.3.2.  
Đề cương chi tiết  
- Đề cương chi tiết đề cương chính thức, được lập sau khi công việc thu thập và  
xử lý thông tin đã cơ bản hoàn thành, còn gọi đề cương để chứng minh. Đề cương  
này đã thể hiện đầy đủ nội dung của công trình nghiên cứu với các luận điểm lớn, nhỏ,  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 236 trang yennguyen 07/04/2022 4900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tập bài giảng Kỹ năng nghiên cứu và lập luận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctap_bai_giang_ky_nang_nghien_cuu_va_lap_luan.doc