Phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh Tiểu học

TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
149  
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO  
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC  
Vũ Thu Hằng  
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội  
Tóm tắt: Giáo dục thế hệ trẻ có nhân cách sáng tạo là một trong những nhiệm vụ hàng  
đầu của giáo dục, trong đó có giáo dục Tiểu học. Điều này được thể hiện trong mục đích  
của mọi hoạt động của nhà trường, đặc biệt là việc tổ chức hoạt động học tập nhằm  
hướng đến việc hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất của một nhân cách  
sáng tạo. Chúng ta có thể phát triển năng lực tư duy sáng tạo ngay từ cấp Tiểu học thông  
qua các môn học và cho mọi học sinh (kể cả học sinh trung bình) bằng việc tạo ra một  
lớp học khích lệ tư duy của học sinh cũng như việc vận dụng các biện pháp chuyên biệt  
theo các cách thức và mức độ khác nhau phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh.  
Từ khóa: Phát triển năng lực tư duy sáng tạo, thực trạng và giải pháp, học sinh Tiểu học  
Nhận bài ngày 13.3.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 10.4.2019  
Liên hệ tác giả: Vũ Thu Hằng; Email:vthang@hnmu.edu.vn  
1. MỞ ĐẦU  
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là vấn đề luôn được ngành giáo dục chú trọng  
và quan tâm. Đặc biệt đối với giáo dục Tiểu học lại có những đặc thù riêng. Trong đó, việc  
rèn luyện cho học sinh (HS) khả năng tư duy, một phương pháp học tập tích cực đòi hỏi  
mỗi giáo viên (GV) phải có nghệ thuật trong cách chuyển tải kiến thức. Với mỗi một tiết  
dạy, các GV luôn thể hiện sự sáng tạo của mình trong việc chuyển tải kiến thức tới HS.  
Điều quan trọng nhất mà các thầy cô chia sẻ, đó là làm sao để các em lĩnh hội kiến thức  
một cách chủ động và nhẹ nhàng nhất.  
Mục tiêu của giáo dục là tạo ra những con người có năng lực tư duy và khả năng nhận  
biết vấn đề, đưa ra các giải pháp hiệu quả nhất để lựa chọn, thử nghiệm và tìm ra cách giải  
quyết hợp lý nhất so với nguồn lực và hoàn cảnh hiện có. Theo diễn đàn kinh tế thế giới,  
65% trẻ em bước vào trường Tiểu học hôm nay sẽ làm những loại công việc còn chưa được  
“đặt tên”. Thế nhưng, khi nhìn vào môi trường và phương pháp giáo dục hiện tại ở Việt  
Nam, người ta vẫn thấy phong cách giáo dục của hàng chục năm trước. Ở đó, HS ngoan  
150  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
ngoãn ngồi nghe GV giảng, GV là người kiểm soát tất cả các hoạt động, môi trường và HS  
trong lớp. Các chuyên gia giáo dục của UNICEF đã chỉ ra rằng: điều khó khăn nhất trong  
việc triển khai các chương trình giáo dục kĩ năng thế kỷ 21 tại Việt Nam là tư duy của  
người giảng dạy. Theo phương pháp mới của các quốc gia có nền giáo dục phát triển, GV  
chỉ đóng vai trò là facilitator - người tạo điều kiện, người kích hoạt mà thôi. Tại các nước  
này, sự ưu việt trong giáo dục của họ đơn giản là tập trung vào việc giúp trẻ tự mình, hoặc  
qua hợp tác nhóm, tìm ra cách giải quyết vấn đề. Cuối cùng, mục tiêu của giáo dục là tạo ra  
những con người có năng lực tư duy và khả năng nhận biết vấn đề, đưa ra các giải pháp  
hiệu quả nhất để lựa chọn, thử nghiệm và tìm ra cách giải quyết hợp lý nhất so với nguồn  
lực và hoàn cảnh hiện có.  
Năng lực tư duy sáng tạo (TDST) - bậc cao nhất của hoạt động trí tuệ con người, có  
tầm quan trọng vô cùng đặc biệt đối với sự phát triển các nền văn minh của loài người. Có  
năng lực TDST không chỉ giúp con người giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong cuộc  
sống một cách thích hợp mà còn đảm bảo cho việc hiện thực hóa những năng lực tiềm tàng  
của mỗi cá nhân. Vì vậy nó luôn là một thuộc tính nhân cách mong muốn của xã hội và  
được coi là mục đích giáo dục toàn cầu. Tầm quan trọng của năng lực TDST trong hoạt  
động học tập và hoạt động thực tiễn được nhận thức sâu sắc và đang từng bước thực hiện  
thành chương trình hành động cụ thể trong giáo dục và trong dạy học. Việc phát triển năng  
lực TDST nói riêng, hoạt động sáng tạo nói chung trong chương trình học tập của HS là  
việc làm hết sức cần thiết và cấp bách không chỉ bởi đòi hỏi của xã hội ngày nay: “đổi mới  
tư duy”, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của HS mà còn là yêu cầu tự thân  
của quá trình dạy học, quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới giáo dục.  
2. NỘI DUNG  
2.1. Năng lực tư duy sáng tạo dưới góc độ tâm lí học và giáo dục học  
Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh  
thần, tìm ra cái mới, vận dụng thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. Năng  
lực sáng tạo gắn liền với kĩ năng, kĩ xảo và vốn hiểu biết của chủ thể. Trong bất cứ lĩnh  
vực hoạt động nào, càng thành thạo và có kiến thức sâu rộng thì càng nhạy bén trong dự  
đoán, đề ra được nhiều phương án để lựa chọn, càng tạo điều kiện cho trực giác phát triển.  
Bởi vậy không thể rèn luyện năng lực sáng tạo khi tách rời, độc lập với học tập kiến thức  
về một lĩnh vực nào đó.  
Năng lực TDST là một trong những năng lực sáng tạo, bên cạnh các năng lực khác  
như năng lực tưởng tượng, liên tưởng hay năng lực tự học sáng tạo… Mục đích của việc  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
151  
dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp những tri thức cụ thể cho HS mà còn phải  
trang bị cho HS cách thức tiếp cận và thu nạp những tri thức như thế. Cũng vì vậy, nhà  
trường và xã hội đòi hỏi việc dạy học phải trang bị được cho HS các thao tác tư duy và bồi  
dưỡng được các phẩm chất cho năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực TDST.  
Trong lĩnh vực giáo dục, thang cấp độ tư duy có thể được xem là một công cụ nền tảng  
để từ đó xây dựng và sắp xếp các mục tiêu giáo dục, xây dựng các chương trình, qui trình  
giáo dục và đào tạo, xây dựng, hệ thống hóa các câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra đánh giá  
quá trình học tập. Thang cấp độ tư duy đầu tiên được xây dựng bởi B.S.Bloom (1956) gọi  
là thang tư duy Bloom (Bloom's taxonomy) bao gồm 6 cấp độ, được nhìn nhận và miêu tả  
như hình một kim tự tháp, từ dưới đáy trở lên là: Biết (Knowledge), Hiểu  
(Comprehension), Vận dụng (Application), Phân tích (Analysis), Tổng hợp (Synthesis) và  
Đánh giá (Evaluation). Hai cấp độ “Biết” và “Hiểu” được coi là tư duy bậc thấp, bốn cấp  
độ còn lại là tư duy bậc cao. Nhận thấy thang trên chưa thật sự hoàn chỉnh, vào năm 1999,  
Lorin Anderson, một học trò của B.S.Bloom, đã cùng một số cộng sự đề xuất Thang  
Bloom tu chính (Bloom’s Revised Taxonomy). Có ba sự thay đổi đáng lưu ý trong sự điều  
chỉnh này so với Thang Bloom: cấp độ tư duy thấp nhất là “Nhớ” thay vì “Biết”, cấp “Tổng  
hợp” được bỏ đi và đưa thêm “Sáng tạo” vào mức cao nhất. Sự điều chỉnh này sau đó đã  
nhận được sự ủng hộ bởi đa số các cơ sở giáo dục - nơi đề cao các hoạt động giúp phát  
triển năng lực sáng tạo của người học.  
Mức độ tư duy “nhớ”: có thể nhắc lại các thông tin đã được tiếp nhận trước đó. Mức  
độ “hiểu” thể hiện ở khả năng diễn dịch, diễn giải, giải thích hoặc suy diễn của HS. “Vận  
dụng” là mức độ tư duy đòi hỏi năng lực sử dụng thông tin và chuyển đổi kiến thức từ  
dạng này sang dạng khác, nói cách khác là sử dụng những kiến thức đã học trong hoàn  
cảnh mới. “Vận dụng” là chỗ bắt đầu của mức TDST. “Phân tích” là khả năng nhận biết  
các chi tiết, phát hiện và phân biệt các bộ phận cấu thành của thông tin, chỉ ra và giải thích  
mối quan hệ giữa các thành phần với tổng thể. Cao hơn phân tích là “đánh giá”. Đánh giá  
đòi hỏi khả năng phán xét giá trị của đối tượng hoặc sử dụng thông tin để biện minh, phê  
bình theo các tiêu chí thích hợp. Để đạt đến mức độ tư duy này, HS phải sử dụng những gì  
đã học để đánh giá, cho ý kiến, bình luận, tổng hợp, so sánh và biết sử dụng những lập luận  
để bảo vệ quan điểm của mình. Mức độ tư duy cao nhất, khó nhất đối với người học là tư  
duy “sáng tạo”. Ở mức độ tư duy này, HS phải sử dụng những gì đã học để thiết lập, tổng  
hợp, xây dựng, thiết kế, sáng tác, đề xuất hoặc sáng tạo một cái gì đó hoàn toàn mới. Cái  
mới này tất nhiên phải được xây dựng từ những cái đã có, từ những yếu tố thành phần và  
thể hiện rõ nhất ở hoạt động đồng sáng tạo.  
Đã có nhiều quan điểm về khái niệm TDST được đưa ra. Vưgotxki L.X. (Nga) cho  
rằng: “Hoạt động sáng tạo là bất cứ hoạt động nào của con người tạo ra được cái gì mới,  
152  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
không kể rằng cái được tạo ra ấy là một vật cụ thể hay là sản phẩm của trí tuệ hoặc tình  
cảm chỉ sống và biểu lộ trong bản thân con người” [3, tr.84]. Còn theo Torrance P.E.:  
Sáng tạo là quá trình xác định các giả thuyết, nghiên cứu chúng và tìm ra kết quả. Ông cho  
rằng sáng tạo “là quá trình trở nên nhạy cảm hay nhận biết nhiều vấn đề, sự thiếu hụt hay  
lỗ hổng trong kiến thức, sự thiếu hụt các yếu tố hay sự thiếu hòa hợp... cùng nhau đưa đến  
các mối quan hệ mới với những thông tin hiện tại có giá trị từ đó dẫn đến tìm kiếm những  
phương án giải quyết, những phỏng đoán, công thức hóa về vấn đề” [2, tr.102]. Ở Việt  
Nam, theo tác giả Chu Quang Tiềm, “Sáng tạo, căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn làm  
tài liệu rồi cắt xén, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một hình tượng mới” [1, tr.295]. Quan  
niệm này nhấn mạnh đến những cái đã biết làm cơ sở cho sự sáng tạo. Nguyễn Đức Uy lại  
cho rằng: “Sáng tạo là sự đột khởi thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ, nảy  
sinh từ sự độc đáo của một cá nhân và những tư liệu, biến cố, nhân sự, hay những hoàn  
cảnh của đời người ấy” [4, tr.9]. Quan điểm này cho rằng không có sự phân biệt về sáng  
tạo, nghĩa là sáng tạo dù ít, dù nhiều đều là sáng tạo. Còn tác giả Nguyễn Huy Tú (1996),  
trong cuốn Đề cương bài giảng Tâm lý học sáng tạo, định nghĩa sáng tạo như sau: “Sáng  
tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các  
phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh nghiệm của mình và bằng tư  
duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở  
đó người sáng tạo gạt bỏ được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới  
độc đáo và thích hợp cho vấn đề đặt ra” [5, tr.5].  
Từ các quan điểm trên về khái niệm TDST, chúng ta có thể nhận thấy mặc dù sáng tạo  
được giải thích ở các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều thống nhất cho rằng: TDST  
là một thuộc tính, một phẩm chất trí tuệ đặc biệt của con người; hoạt động sáng tạo diễn ra  
ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực; bản chất của sáng tạo là con người tìm ra cái mới, cái độc  
đáo và có giá trị xã hội. TDST là tư duy có khuynh hướng phát hiện và giải thích bản chất  
sự vật theo lối mới, hoặc tạo ra ý tưởng mới, cách giải quyết mới không theo tiền lệ đã có.  
TDST được đặc trưng bởi các yếu tố chính (basic components) như tính mềm dẻo  
(flexibility), tính thuần thục (fluency), tính độc đáo (originality), tính chi tiết (elaboration)  
và tính nhạy cảm (problemsensibility). Các đặc trưng trên của TDST không tách rời nhau  
mà chúng có liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, trong đó tính độc đáo được cho  
là quan trọng nhất trong biểu đạt sáng tạo, tính nhạy cảm vấn đề đi liền với cơ chế xuất  
hiện sáng tạo. Tính mềm dẻo, thuần thục là cơ sở để có thể đạt được tính độc đáo, tính  
nhạy cảm, tính chi tiết và hoàn thiện.  
TDST đóng vai trò quan trọng trong giáo dục. Thứ nhất, trong học tập, TDST giúp HS  
có khả năng đạt được điểm cao, đam mê học tập, việc học trở nên nhẹ nhàng và thoải mái  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
153  
hơn. Thứ hai, trong xây dựng các mối quan hệ, kĩ năng TDST giúp HS được những người  
xung quanh kính trọng và yêu quý hơn, hơn thế nữa HS còn tìm được những người bạn  
thực sự, cũng như giữ gìn và làm cho những mối quan hệ ấy ngày càng tốt đẹp hơn. Thứ  
ba, khi bước chân ra khỏi nhà trường, với TDST, HS sẽ phát triển nghề nghiệp và con  
đường sự nghiệp một cách tốt đẹp. Thứ tư, với kĩ năng tư suy sáng tạo, HS cũng sẽ sẽ dễ  
dàng biết cách tồn tại và sống trong một xã hội nhiều thử thách hiện nay. Thứ năm, kĩ năng  
TDST chính là chìa khóa đưa thế giới không ngừng phát triển, chỉ có TDST mới có khả  
năng giúp con người khám phá, phát minh ra những công trình vĩ đại đóng vai trò quan  
trọng trong việc làm thay đổi xã hội, giúp xã hội có những bước tiến dài trong lịch sử.  
2.2. Năng lực tư duy sáng tạo của học sinh Tiểu học  
Thứ nhất, hoạt động của trẻ có được gọi là hoạt động sáng tạo không và TDST đã có ở  
trẻ hay chưa? Nếu có thì nó đã phát triển chưa hay mới chỉ là bước đầu hình thành?  
L.X.Vưgotski, trong nghiên cứu trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi, cho rằng  
sự sáng tạo thật ra không phải chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác phẩm lịch sử vĩ đại, mà ở  
khắp nơi nào con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra một cái gì mới, cho dù  
cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi chăng nữa so với sự sáng tạo của các bậc thiên tài” [7,  
tr.13]. Và ông cũng khẳng định: “Một trong những vấn đề quan trọng nhất của tâm lý học  
thiếu nhi và giáo dục học là vấn đề sự sáng tạo ở thiếu nhi, sự phát triển của các năng lực  
sáng tạo và ý nghĩa của công việc sáng tạo đối với sự phát triển chung và sự trưởng thành  
của trẻ em” [7, tr.14]. Như vậy hoàn toàn có sự tương đồng giữa quá trình sáng tạo của HS  
và quá trình sáng tạo của các nhà khoa học, nhà sáng chế. Chẳng hạn với nhà khoa học,  
khởi nguồn cho sự sáng tạo là niềm say mê với vấn đề khoa học thì với HS Tiểu học,  
nguồn cảm hứng, kích thích cho hoạt động sáng tạo được biểu hiện qua dấu hiệu: thích hỏi,  
tò mò và hay thắc mắc. Với nhà khoa học bắt đầu công việc sáng tạo từ một câu hỏi thì với  
HS Tiểu học, sự sáng tạo thể hiện qua việc đưa ra những câu hỏi khó và sâu về một chủ đề  
học tập.  
Rubinstein X.L. cho rằng, có hai loại sản phẩm sáng tạo ứng với hai mức độ sáng tạo:  
Mức độ 1 - Sáng tạo trong một lĩnh vực nhất định mà có thể làm thay đổi tận gốc các quan  
điểm của hệ thống cũ. Tức sáng tạo ra tri thức mới. Ở mức độ này, người ta thường đề cập  
đến hoạt động sáng tạo của loài người, sáng tạo của các nhà khoa học. Mức độ 2 - Phát  
triển cái đã biết, mở rộng lĩnh vực ứng dụng, đào sâu lý thuyết, làm sáng tỏ phương diện lý  
luận, vận dụng tri thức vào tình huống mới. Ông khẳng định: sản phẩm sáng tạo của trẻ  
mang tính chủ quan, khác với sản phẩm sáng tạo của người lớn mang tính khách quan. Sản  
phẩm sáng tạo của trẻ chưa mang ý nghĩa xã hội. Cái mới, cái độc đáo trong sản phẩm sáng  
tạo của trẻ mới chỉ có ý nghĩa trước hết đối với bản thân trẻ. Hoạt động sáng tạo mang lại  
154  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
cho trẻ niềm vui sướng, sự thích thú. Nếu được khuyến khích kịp thời sẽ tạo điều kiện  
thuận lợi cho trẻ bộc lộ khả năng sáng tạo của mình, khi đó sẽ càng kích thích trẻ sáng tạo.  
Theo ông, đứa trẻ trong phạm vi còn hạn chế của sự nhận thức, của vốn kinh nghiệm vẫn  
có nhiều cơ hội để bộc lộ và phát triển sáng tạo chủ quan của mình, điều quan trọng là phải  
biết phát hiện ra cái gì là cái mới chủ quan của nó.  
Từ những nhận định của các nhà khoa học, có thể khẳng định rằng sự khác nhau giữa  
sáng tạo của người lớn với sự sáng tạo của trẻ em chỉ là mức độ của sản phẩm sáng tạo,  
mức độ giải quyết vấn đề, mức độ tự lập trong suốt quá trình sáng tạo. Còn về cơ chế, về  
nguyên tắc, bản chất TDST không có sự khác biệt nào giữa sáng tạo của HS Tiểu học với  
người lớn và với các nhà khoa học. Chẳng hạn với nhà khoa học, quá trình sáng tạo là quá  
trình tìm ra các giải pháp độc đáo hay nhiều cách giải quyết độc đáo cho cùng một vấn đề,  
hoặc tạo ra, tìm ra được những sản phẩm mới có ý nghĩa xã hội bằng những con đường,  
cách thức độc đáo, mới mẻ. Điều này với HS Tiểu học được biểu hiện trong quá trình học  
tập như đưa ra những lý do hợp lý cho những câu trả lời; tìm ra cách giải quyết vấn đề hay  
và độc đáo (chẳng hạn giải được các bài toán khó với cách giải hay, mới lạ và độc đáo; viết  
được các bài văn hay, xúc tích và giàu hình ảnh); tìm ra câu trả lời chính xác và sắc sảo  
cho câu hỏi hoặc yêu cầu của GV; tìm ra nhiều cách giải quyết cho cùng một vấn đề học  
tập (chẳng hạn tìm ra nhiều cách giải cho một bài toán, đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau  
và độc đáo cho một vấn đề); biết phát hiện, giải quyết vấn đề, biết cách học và tự học...  
Tóm lại, có thể khẳng định HS Tiểu học đã thể hiện TDST.  
Thứ hai, mức độ TDST của HS Tiểu học như thế nào? Theo Nguyễn Huy Tú [5, tr.16],  
việc phân biệt các mức độ sáng tạo có ý nghĩa rất quan trọng trọng việc giáo dục và đào tạo  
con người. Ông đã phân chia sáng tạo thành năm mức độ sau: 1) Sáng tạo biểu hiện là mức  
sáng tạo cơ bản nhất không đòi hỏi kĩ năng quan trọng nào; 2) Sáng tạo chế tạo là mức  
sáng tạo cao hơn sáng tạo biểu hiện; 3) Sáng tạo phát kiến là sự đề xuất sáng kiến hay phát  
kiến; 4) Sáng tạo cải biến là mức sáng tạo cao, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc các kiến thức  
khoa học hoặc các kiến thức chuyên môn; 5) Sáng tạo phát minh là mức độ sáng tạo cao  
nhất, có đặc trưng là tạo ra những sản phẩm vật chất hay tinh thần hoàn toàn mới, những  
cách thức hành động chưa từng có trong kinh nghiệm. Theo nhận định của ông, sáng tạo  
của HS Tiểu học chủ yếu ở cấp độ đầu tiên: sáng tạo biểu hiện. Đồng thời cũng có những  
biểu hiện của sáng tạo chế tạo và sáng tạo phát kiến. Đây là những dạng cơ bản nhất và là  
bậc quan trọng nhất của sáng tạo vì không có nó thì sẽ không có một sự sáng tạo nào cao  
hơn.  
Thứ ba, biểu hiện một số yếu tố của TDST ở HS Tiểu học như thế nào? Bộ trắc  
nghiệm sáng tạo TSD –Z của Klaus K.Urban được ứng dụng ở Việt Nam (do nhóm nghiên  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
155  
cứu, đứng đầu là Nguyễn Huy Tú thực hiện năm 2006) đã đưa ra nhiều kết luận, trong đó  
khẳng định mức độ sáng tạo của nam và nữ HS Tiểu học ở Việt Nam là tương đương nhau  
nhưng có sự khác biệt về mức độ sáng tạo ở từng nhóm đối tượng HS: khá, giỏi, trung  
bình, yếu (cùng độ tuổi) [6, tr.147-207]. Như vậy có thể dựa vào 4 chỉ số của TDST: mềm  
dẻo, thuần thục, chi tiết, độc đáo của Torrance E.P. để đánh giá biểu hiện TDST của HS  
Tiểu học.  
Tóm lại, có thể khẳng định rằng HS Tiểu học, đặc biệt là HS cuối cấp đã có có đầy đủ  
các điều kiện cần thiết cho hoạt động nhận thức nói chung, hoạt động sáng tạo nói riêng.  
Tuy nhiên, các khả năng này mới ở mức độ ban đầu, sơ đẳng nên hoạt động sáng tạo của  
các em cũng chỉ dừng ở mức tạo ra những cái mới đối với bản thân, kể cả tri thức, kinh  
nghiệm tích luỹ được cũng như cách thức, con đường chiếm lĩnh những tri thức, kinh  
nghiệm ấy. Cùng với sự phát triển các khả năng nhận thức khác, TDST của HS Tiểu học,  
đặc biệt là HS các lớp cuối cấp Tiểu học tuy ở mức đầu sơ giản nhưng cũng đã mang  
những nét đặc trưng cơ bản nhất của TDST như tính mềm dẻo, linh hoạt, độc đáo và thể  
hiện ở các mức độ khác nhau giữa các nhóm đối tượng HS. Trong dạy học, việc phân biệt  
mức độ mức độ không phải là vấn đề quan trọng, mà quan trọng hơn, người GV phải nhận  
diện được những yếu tố đặc trưng của TDST thể hiện ở mỗi cá nhân HS để có tác động phù  
hợp làm cho nó phát triển hơn.  
2.3. Thực trạng và giải pháp phát triển năng lực TDST cho học sinh Tiểu học  
TDST của HS Tiểu học thường gặp một số rào cản như sau:  
Lối mòn tư duy: Ở mỗi giai đoạn khác nhau trong bậc Tiểu học, HS lại có thêm kiến  
thức, nhiều định kiến về mọi thứ. Các định kiến đó là do các lối mòn tư duy đã hình thành  
trong cuộc sống. Những định kiến này thường làm HS không nhìn nhận được thấu đáo  
những gì mà chúng ta đã biết hay tin tưởng là có thể xảy ra. Chúng ngăn cản sự thay đổi và  
tiến bộ. Đó là những lối nghĩ thông thường. Đó là sức ì của tư duy do đã quen suy nghĩ  
theo lối mòn.  
Tin vào kinh nghiệm: Khi thực hiện một kế hoạch hay quyết định một vấn đề gì đó,  
có thể HS Tiểu học không cần suy nghĩ, tìm giải pháp tốt nhất, ý tưởng mới, mà lại cho  
rằng những việc đó mình đã làm nhiều lần rồi, GV đã cho luyện tập nhiều rồi và nhất nhất  
chỉ nghe theo lời GV yêu cầu, không có gì phải suy nghĩ, đắn đo. Chính sự quá tin tưởng  
vào kinh nghiệm đó vô tình giết chết TDST của chính các em HS. Do đó, nếu muốn làm  
một việc gì hay quyết định vấn đề gì đó, dù rất quen thuộc, cũng đừng vội vàng tin tưởng  
vào những kinh nghiệm có sẵn mà hãy đặt ra những câu hỏi; tìm ra góc độ khác cho vấn đề  
và thử tìm cách giải quyết theo hướng khác, cách thức khác.  
156  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
Sợ thất bại: Đây cũng là nguyên nhân chính gây cản trở TDST. Những cách nghĩ  
mới, cách làm mới thường phải đối mặt với nhiều rủi ro và nguy cơ thất bại cao. Nhất là  
HS Tiểu học hay mang tâm lý này thường nghĩ: tôi không phải là người sáng tạo, tôi không  
thể giải quyết vấn đề đó, tôi sợ phải trả giá cho sự thất bại. Chúng thường cảm thấy không  
đủ khả năng để giải quyết vấn đề gặp phải: không đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả  
năng sáng tạo… Do đó, GV hãy động viên khích lệ tinh thần đối với trẻ, đừng nên chỉ trích  
mỗi khi chúng làm sai mà hãy động viên chúng. Bên cạnh đó, tính lười biếng cũng khiến  
một số HS không suy nghĩ, mà không suy nghĩ thì không thể suy nghĩ sáng tạo… Thực  
chất, ai cũng có năng lực sáng tạo, chỉ cần có đủ niềm tin và sự dũng cảm, ai cũng có thể  
tìm ra lời giải cho những vấn đề mà mình gặp phải, ít nhất là những vấn đề liên quan đến  
cuộc sống cá nhân.  
Sợ bị chê cười: Khi tạo ra một cái gì đó mới, người có tâm lý ngại thay đổi thường  
quan tâm đến việc người khác sẽ nghĩ gì và lo sợ các ý tưởng của mình bị đánh giá như  
“trò trẻ con”. Thực tế của cuộc sống, những ý tưởng mới ra đời thường có thể bị chế nhạo,  
chỉ trích. Những người có sáng tạo là những người hay có những ý tưởng khác người và ít  
được sự chấp thuận của mọi người xung quanh. Chính vì tâm lý sợ bị chê cười nên nhiều ý  
tưởng chỉ được dừng lại ở suy nghĩ và không dám bộc lộ ra, lâu dần nó khiến người ta trở  
nên tự ti với chính những tư tưởng, sáng tạo của mình, không muốn nghĩ đến những ý  
tưởng được cho là điên rồ đó nữa. Do đó, cần lưu ý: những tiến bộ được thực hiện chỉ bởi  
những người có đủ sức mạnh để chịu đựng sự cười chê. Khi vượt qua tâm lý ngại thay đổi,  
mỗi cá nhân tự cởi bỏ những ràng buộc cho TDST của mình.  
Chấp nhận sự sẵn có: Đó là khi con người chỉ muốn đi theo một lối mòn đã được  
nhiều người đi trước đó hoặc chính họ là người cũng đã nhiều lần đi trên con đường đó. Họ  
không muốn sáng tạo ra một con đường mới vì nhiều lý do khác nhau. Hơn nữa sự có sẵn  
lúc nào cũng mang lại cảm giác an toàn, cho dù nó có cũ đến mức nào. Nếu có tư tưởng  
chấp nhận sự có sẵn như vậy, khó có thể sáng tạo. Hãy nhanh chóng thay đổi, nếu không  
đó sẽ là rào cản rất lớn đối với việc TDST. Đó là sức ì của tư duy do đã quen suy nghĩ theo  
cái có sẵn. Ngoài ra, tính lười biếng cũng khiến con người không suy nghĩ, mà không suy  
nghĩ thì không thể suy nghĩ sáng tạo. là xóa bỏ khỏi tâm trí cụm từ “Không thể có ý tưởng/  
cách/giải pháp nào hay hơn nữa!”. Đừng luôn tuân theo những cách giải quyết vấn đề đã  
có, đừng chấp nhận những ý tưởng mà ai cũng nghĩ ra được, đừng hài lòng với sản phẩm  
hiện đang có. Luôn đặt ra cho mình một đòi hỏi là hãy tìm tòi điều gì đó mới hơn, lạ hơn,  
“độc” hơn.  
Mặc dù việc phát triển TDST cho HS Tiểu học thông qua dạy học các môn học là rất  
cần thiết, tuy nhiên, hầu như GV chưa quan tâm đúng mức đến dạy học phát triển TDST  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
157  
cho HS cũng như chưa có biện pháp phát triển TDST cho HS một cách hiệu quả. Điều này  
xuất phát từ các nguyên nhân sau:  
Thứ nhất, nhận thức của GV, HS về dạy tư còn mơ hồ, chung chung. Mặc dù GV đã  
ít nhiều nhận thức được tầm quan trọng của TDST và cần thiết phải hình thành, phát triển  
TDST cho HS cũng như có thể rèn luyện để phát triển TDST cho HS nhưng phần lớn GV  
đều chưa có biện pháp cụ thể để phát triển TDST cho HS. Họ lý giải việc phát triển TDST  
cho HS một cách chung chung, còn rèn cái gì, phát triển những yếu tố nào... thì hầu như  
chưa có một quan điểm rõ ràng.  
Thứ hai, chưa có một môi trường sư phạm thích hợp cho việc phát triển TDST cho  
HS. Có thể khẳng định hầu hết GV chưa tạo ra được một môi trường lớp học “an toàn” và  
“thân thiện”, mọi HS được đối xử một cách tôn trọng, công bằng…và một bầu không khí  
lớp học vừa cởi mở vừa cạnh tranh để khuyến khích, cổ vũ cho tư duy của HS. Thật vậy,  
tuy GV đã nhận thức được rằng phát triển TDST cho HS là rất quan trọng nhưng thực tế họ  
lại không thực hiện việc này trong quá trình dạy học của mình. Nhiều GV cho rằng họ chỉ  
cần HS tìm ra được kết quả đúng theo đáp án đã đủ đáp ứng yêu cầu đặt ra, không yêu cầu  
cần phải giải thích hay lập luận cho những cách làm khác. Trong thực tế, nếu HS có đưa ra  
được nhiều ý kiến, quan điểm, cách làm khác nhau thì GV cũng là người nhận xét, đánh  
giá hoặc cũng chỉ có thể cho HS nhận xét đúng hay sai để đi đến kết luận. Chỉ khi HS đưa  
ra ý tưởng, kết luận như GV là được thừa nhận.  
Thứ ba, GV chưa chú ý đến phát triển TDST, đặc biệt là tính mềm dẻo, thuần thục và  
độc đáo - ba yếu tố cơ bản nhất của TDST cho HS. Trong một tiết học, có những nội dung  
có thể khai thác để phát triển ba yếu tố cơ bản nhất của TDST cho HS nhưng đều bị GV bỏ  
qua. Hơn nữa, GV cũng chưa tạo điều kiện, khuyến khích hay tổ chức để HS vận dụng linh  
hoạt các TTTD và các phương pháp suy luận vào giải quyết các vấn đề học tập, chưa tạo  
lập cho HS thói quen suy nghĩ không rập khuôn, không áp dụng một cách máy móc những  
tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có vào trong những điều kiện, hoàn cảnh mới trong đó có  
những yếu tố đã thay đổi; chưa rèn cho HS khả năng tìm nhiều cách giải quyết cho một vấn  
đề và luôn tìm ra cách ngắn gọn nhất, tìm được nhiều giải pháp trên nhiều góc độ và nhiều  
tình huống khác nhau, từ đó sàng lọc các giải pháp để chọn được giải pháp tối ưu, hoặc  
phát hiện ra hoặc giải thích được vấn đề mới dựa trên kiến thức của bài học, tìm ra cách  
giải quyết vấn đề hay và độc đáo. Ngoài ra, như một thói quen, đa số GV đã không để thời  
gian đủ cho HS có thể đánh giá tất cả những cách làm của mình, của bạn để từ đó chọn  
cách làm đúng và hay, thấy rõ được giá trị của những cái hay, nhờ đó mà HS thấy được cái  
sai của mình.  
158  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
Thứ tư, trong quá trình dạy học, GV chưa chú ý đến việc phát triển TDST cho nhiều  
nhóm đối tượng HS (khá, giỏi, trung bình...). Không ít GV có quan niệm sai lầm rằng tính  
sáng tạo, trong đó có TDST là một khả năng thiên phú, chỉ có ở một số ít người, đối với  
HS cũng vậy, chỉ có một số ít HS là có khả năng sáng tạo. HS nào đã học giỏi thì dù dạy  
thế nào chúng cũng học giỏi, và ngược lại. Vì vậy, họ không chú ý đến việc làm sao để  
phát triển TDST cho mọi đối tượng HS. Không những thế, kể cả những GV đã quan niệm  
rằng tiềm năng sáng tạo có ở mọi HS bình thường thì trong thực tế dạy học, họ cũng không  
chú ý đến phát triển TDST cho nhóm đối tượng HS trung bình và dưới trung bình. Thực tế  
trong mỗi giờ học, nếu có chú ý rèn TDST thì cũng chỉ có nhóm đối tượng HS khá giỏi  
được quan tâm, còn đối tượng HS trung bình thì đứng ngoài cuộc hoặc hoàn toàn bị bỏ rơi,  
trong khi nhóm đối tượng HS này chiếm đa số trong mỗi lớp học.  
Thứ năm, biểu hiện của HS trong quá trình học tâp như chưa biết và chưa có thói  
quen tìm ra nhiều cách giải quyết cho một vấn đề; áp dụng máy móc kiến thức kĩ năng,  
cách giải; khi thực hiện bài giải, HS chủ yếu làm theo trình tự các bước tính, trình tự thực  
hiện các phép tính, HS cặm cụi tính từng bước tỉ mỉ, cẩn thận mà không biết làm gộp, làm  
tắt các bước tính, chưa kết hợp giữa kĩ năng tính toán và suy luận vấn đề; vận dụng các  
tính chất của các phép tính, các phương pháp giải điển hình vào giải quyết một cách sáng  
tạo; chưa biết vận dụng cách giải loại, dạng, mẫu bài toán này vào giải quyết các loại,  
dạng, mẫu bài; chủ yếu là viết câu, viết đoạn theo mẫu mà chưa biết phá cách, kết hợp (đảo  
ngữ, thêm thành phần phụ, sử dụng từ ngữ biểu cảm, độc đáo...) để làm cho câu văn, bài  
viết trở nên sinh động; không viết được các bài tập làm văn “phá mẫu” mà chủ yếu tuân  
theo trình tự chặt chẽ: mở bài, thân bài, kết luận,... hoặc thường mở bài trực tiếp mà không  
mở bài gián tiếp; chưa biết vận dụng kiến thức được học vào xử lý linh hoạt, sáng tạo các  
tình huống thực tiễn; chưa biết chia nhỏ vấn đề (bài tập, câu hỏi) để giải quyết từng phần  
một cách dễ dàng; chưa biết sắp xếp, bố trí công việc một cách hợp lý, linh hoạt để tránh  
chồng chéo, chờ đợi, mà phát huy được hiệu quả cao; chưa biết nhìn tổng thể, toàn diện đối  
với các vấn đề; chưa nhận thức được mọi sự vật đều có mối liên hệ với nhau, để giải quyết  
toàn diện, đồng bộ (linh hoạt, mềm dẻo); chưa biết giải quyết vấn đề một cách độc lập;  
thường bế tắc khi gặp các vấn đề khó trong học tập mà chưa biết cách giải quyết linh hoạt;  
chưa nhận ra được các chức năng khác của một sự vật hay vấn đề (cách giải, bài toán, câu  
hỏi); chưa nhận ra sự hoán đổi các chức năng giữa các sự vật, vấn đề trong học tập; chưa  
nhìn ra và khai thác cái hay, cái tốt, cái tích cực, cái lợi thế, cơ hội trong hoàn cảnh xấu,  
điều kiện khó khăn, trong thách thức...; chưa nhận ra tính hai mặt của một vấn đề để phát  
huy cái tốt, cái hay và hạn chế cái xấu, cái không hay... (ở mức độ đơn giản nhất). Đây là  
những biểu hiện tiêu biểu chứng tỏ HS chưa phát huy TDST trong quá trình học tập cũng  
như trong cách thức giải quyết các vấn đề.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
159  
Vậy cần phải có các giải pháp hiệu quả để phát triển năng lực TDST của HS Tiểu học.  
Một là sử dụng lớp học tư duy. Một lớp học tư duy là lớp học diễn ra sự phối hợp nhịp  
nhàng giữa phương pháp dạy của GV và những hành vi tương ứng của HS nhằm giải quyết  
được các nhiệm vụ học tập một cách hiệu quả và tích cực. Trong lớp học đó, cả GV và HS  
đều tích cực hoạt động. GV giữa vai trò tổ chức, điều khiển lớp học còn HS chủ động và  
tích cực tham gia các hoạt động học tập, độc lập suy nghĩ tìm kiếm các phương án giải  
quyết vấn đề trong suốt quá trình học tập. Qua đó, HS không chỉ khám phá ra các tri thức  
mà còn khám phá, làm chủ phương pháp học, phương pháp tư duy. Nó làm cho tư duy của  
HS trở nên nhạy bén, phát triển hơn.  
Hai là GV trong lớp học tư duy. GV trong lớp học tư duy khác gì GV trong lớp học  
truyền thống? Trong lớp học truyền thống, GV chủ yếu thực hiện những công việc như nói.  
Truyền đạt thông tin với vị trí của một tác giả, người truyền đạt. Trong “lớp học tư duy”,  
người GV tạo điều kiện và khuyến khích HS trao đổi, suy nghĩ, cân nhắc và hành động một  
cách dũng cảm. Trong lớp học này, GV vừa là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động  
vừa cộng tác, làm việc cùng các nhóm học tập nhằm giải quyết các nhiệm vụ đã đề ra. Để  
thúc đẩy tư duy HS, GV cần quan tâm: Tạo điều kiện để cả lớp tham gia vào quá trình học  
tập; Kích thích khả năng giao tiếp trao đổi hợp tác của từng HS và cả lớp; Bao quát lớp,  
lắng nghe ý kiến HS; Đúng mực trong góp ý biểu dương hay khiển trách HS. Bên cạnh đó,  
để tạo ra môi trường lớp học cổ vũ cho tư duy của HS, GV nên: Tự đặt mình vào môi  
trường người học để lựa chọn phương pháp phù hợp; Kích thích HS phát huy hết tiềm năng  
và sự sáng tạo của bản thân, hình thành năng lực tư duy, phát hiện giải quyết vấn đề; Xây  
dựng tính tự học và đánh giá cho HS; Giúp HS hứng thú với bài học, hiện tượng xung  
quanh; Liên hệ thực tiễn các kiến thức đã học. Cùng với các yếu tố thức đẩy tư duy của HS  
trong lớp học tư duy, để phát triển TDST của HS cần có những yếu tố cụ thể như: Kích  
thích nhu cầu nhận thức, khám phá của HS; Gợi mở cho HS phương pháp suy nghĩ linh  
hoạt sáng tạo; Tạo thói quen phát hiện vấn đề trong quá trình học tập; Kích thích trí tưởng  
tượng, sáng tạo trong vấn đề học tập; Rèn các thao tác tư duy và kĩ năng suy luận; Tạo cơ  
hội HS hình thành thói quen xem xét dưới nhiều góc độ. Như vậy, sự thành công của việc  
tạo nên một lớp học tư duy phụ thuộc nhiều vào GV với vai trò chủ đạo của người tổ chức  
lớp học.  
Ba là môi trường. Xây dựng môi trường cho tư duy là việc tạo nên một không gian  
kích thích khả năng tư duy của HS. Khi đó, lớp học có thể trở thành một góc học tập, trao  
đổi thông tin, một phòng triển lãm, một sân chơi… cho HS được tham gia và động não.  
Như vậy, môi trường đó phải đảm bảo có được một không khí trong lành, gây ấn tượng và  
cảm hứng cho tư duy. Môi trường lớp học cổ vũ cho tư duy phải là một môi trường “an  
160  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
toàn” và “thân thiện” đối với HS. Tư duy chỉ có thể được khuyến khích, cổ vũ chi trong  
một môi trường như thế. Nói cách khác, môi trường đó, HS cảm thấy an toàn và được tự  
do thực hiện hành trình tự khám phá tri thức của mình. Một lớp học cổ vũ cho HS phát  
triển sẽ phải “an toàn” nhưng có một thành tố còn quan trọng hơn đó là: niềm tin rằng tư  
duy là cần thiết, giá trị và vô cùng thú vị. Trong thực tế dạy học, nhiều GV cũng tạo ra  
được môi trường lớp học “an toàn” nhưng lại không cổ vũ được tư duy của HS phát triển.  
Như vậy, để tạo lập được môi trường lớp học cổ vũ được tư duy cho HS thì việc đầu tiên là  
GV phải làm cho HS hiểu được tư duy là một phần vô cùng quan trọng trong quá trình học  
tập của mỗi HS, sau đó là tạo ra các điều kiện an toàn và thân thiện cho HS phát huy tiềm  
năng tư duy của họ  
Sau khi đã tạo lập được môi trường sáng tạo trong lớp học cũng như kiến tạo được lớp  
học tư duy - cơ sở để phát triển TDST cho HS, người GV cần tiếp tục các công việc như  
kích thích trí tưởng tượng sáng tạo cho HS, tạo lập thói quen mò mẫm - thử sai, rèn luyện  
các thao tác tư duy cơ bản và tác động vào chính các yếu tố đặc trưng của TDST cho HS  
trong quá trình học tập. Đây là những biện pháp mang tính chuyên biệt.  
(1) Kích thích trí tưởng tượng sáng tạo cho HS.  
• Sử dụng câu hỏi gợi sự so sánh giữa các sự vật, hiện tượng. Trong môn Tiếng Việt,  
dùng với các bài tập về các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, bài tập về từ tượng  
thanh, tượng hình...  
• Sử dụng lời nói giàu hình ảnh có tác dụng gợi mở, gợi sự liên tưởng. Trong môn Địa  
lý và Lịch sử, dùng lời nói giàu hình ảnh để mô phỏng, tái hiện, gợi sự liên tưởng đến một  
vùng miền, một trận đánh lịch sử, một câu chuyện lịch sử, một phong cảnh...  
• Sử dụng hình vẽ, mô hình, sơ đồ đoạn thẳng, giản đồ tư duy đơn giản để phác họa  
lại, tóm tắt câu hỏi, bài tập (sử dụng nhiều trong môn Toán).  
(2) Tạo thói quen mò mẫm - thử sai cho HS.  
• Tạo cho học sinh ý thức chủ động học tập;  
• HS tích cực tìm tòi cải tiến cách giải;  
• HS đề xuất các giải pháp mới.  
(3) Rèn luyện việc sử dụng linh hoạt các thao tác tư duy cơ bản.  
Thao tác phân tích - tổng hợp. Việc tìm ra lời giải cho một câu hỏi, bài tập là một  
chuỗi các hoạt động tổng hợp của tư duy diễn ra trong đó có thao tác phân tích - tổng hợp  
được tiến hành một cách phức hợp và theo một quy trình gồm các công đoạn: Tìm hiểu đề  
bài Huy động vốn kiến thức, kinh nghiệm để giải quyết Hiện thực hoá bài giải   
Kiểm tra, đánh giá, kết luận hay nhận xét;  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
161  
Thao tác so sánh - tương tự. Tìm sự khác nhau và giống nhau trong phương pháp  
giải, giữa các sự vật hiện tượng...; Phân biệt các mẫu bài toán các thể loại văn, từ loại, mẫu  
câu, các hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người...; So sánh các yếu tố cho trong các bài  
toán, bài văn;  
Thao tác trừu tượng hoá - khái quát hoá. Trong quá trình tư duy, thao tác trừu tượng  
hoá - khái quát hoá giúp gạt bỏ được sự trừu tượng trong ngôn từ, thuật ngữ, cách hỏi nhờ  
việc viết lại, đặt lại câu hỏi, đề văn, bài toán... Trong dạy học, GV cần giúp HS gạt bỏ tính  
trừu tượng bằng cách phù hợp với đặc trưng của môn học. Trong môn toán, tóm tắt bài  
toán bằng sơ đồ hoặc mô hình được xem là biện pháp tốt nhất gạt bỏ được tính trừu tượng  
cùng các yếu tố không bản chất của bài toán  
(4) Phát triển một số yếu tố TDST cho HS.  
Tính mềm dẻo. GV cần giúp HS nhận thức được rằng cùng một nội dung có thể diễn  
đạt dưới nhiều hình thức khác nhau và ngược lại. Rèn cho HS biết vận dụng thuần thục các  
tao tác tư duy vào giải giải quyết vấn đề. Giúp HS thấy được khi phân tích một vấn đề, một  
sự vật, một đối tượng nhận thức, cần có cái nhìn đa chiều, toàn diện và tổng thể. Rèn cho  
HS biết nhận ra tính hợp lý của đáp án hoặc của quá trình suy luận, giải quyết vấn đề. Rèn  
cho HS khả năng di chuyển hay phối hợp, kết hợp tổng quát các thao tác tư duy, các  
phương pháp suy luận.  
Tính thuần thục. Thể hiện ở việc chủ thể tư duy luôn có một phản xạ tự nhiên đối với  
những vấn đề quen thuộc, đã từng xuất hiện trong kí ức, kinh nghiệm của họ.  
Trong dạy học, GV có thể phát triển tính thuần thục của tư duy thông qua rèn cho HS: Biết  
lập kế hoạch và chương trình thực hiện cho từng vấn đề cụ thể như lập đề cương, lập dàn  
bài, dàn ý, tóm tắt đề bài (nếu cần), có câu trả lời rõ ràng cho mỗi bước giải...; Phản xạ  
nhạy bén với những vấn đề mới, vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết vấn đề, nhiệm  
vụ; Trong quá trình hướng dẫn HS làm bài tập, rèn thói quen không chấp nhận một cách  
giải quen thuộc hoặc duy nhất, luôn kích thích các em tìm tòi và đề xuất nhiều cách giải  
khác nhau cho một vấn đề và luôn tìm ra cách ngắn gọn nhất, tối ưu, độc đáo nhất; Rèn cho  
HS biết hệ thống hoá kiến thức, kĩ năng trong quá trình luyện tập, ôn tập một chủ đề kiến  
thức cụ thể.  
Tính độc đáo. Với môn Toán: Thực hiện gộp các bước tính trong bài giải; từ bài toán  
suy ra được sơ đồ, tóm tắt, đặt thành đề toán khác; bài giải bằng những suy luận gián tiếp,  
những nhận xét sắc sảo. Với môn Tự nhiên - Xã hội: HS biết thực hiện những thí nghiệm  
khác với cách hướng dẫn thông thường của GV mà vẫn cho kết quả tốt; HS đưa ra được  
những giải pháp tốt khác với những giải pháp đã có. Với môn Tiếng Việt: HS biết cách  
dùng từ đặt câu đặc sắc, có giá trị biểu cảm cao; biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu  
162  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
từ như so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, đảo ngữ vào trong viết các câu văn, đoạn văn, bài văn  
theo các chủ đề; tìm được nhiều từ ngữ có giá trị gợi tả, biểu cảm đặc sắc, đồng thời biết sử  
dụng những từ ngữ tìm được đó vào trong những câu văn, đoạn văn làm cho chúng trở nên  
độc đáo.  
3. KẾT LUẬN  
Phát triển năng lực TDST cho HS trong nhà trường Tiểu học là vấn đề mang tính cấp  
thiết và thực tiễn cao, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang đổi mới căn bản và toàn diện  
giáo dục nhằm vào mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ có tri thức cao, năng động, sáng tạo. Hiện  
nay, phát triển năng lực TDST cho HS chưa được quan tâm đúng mức ở cấp Tiểu học.  
Trong những năm trở lại đây, các phương pháp dạy học mặc dù đã được đổi mới khá mạnh  
mẽ song kết quả thu được còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp với yêu cầu cao của thực  
tiễn giáo dục. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là nhà trường hiện nay vẫn còn ảnh  
hưởng nhiều bởi xu hướng dạy học truyền thống, môi trường dạy học thiếu tính cởi mở,  
quan hệ thầy trò nặng về áp đặt mà ít có sự khơi nguồn cảm hứng và phát huy tính sáng tạo  
của người học. Nhiều GV chưa hiểu tường tận về năng lực TDST cũng như tầm quan trọng  
của việc phát triển năng lực TDST cho HS trong quá trình dạy học, chưa có ý thức và chưa  
biết khai thác các nội dung dạy học có thể phát triển năng lực TDST, đồng thời chưa biết  
cách thức, biện pháp, phương pháp để rèn luyện và phát triển năng lực TDST cho HS trong  
quá trình dạy học của mình. Do đó, phát triển TDST cho HS trong nhà trường Tiểu học là  
một cách tiếp cận khả thi trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.  
Việc phát triển năng lực TDST sẽ gắn với việc trang bị kiến thức cho HS. Nó là một  
quá trình lâu dài và luôn song hành trong suốt quá trình dạy học. Tất cả các nội dung dạy  
học đều có tác dụng phát triển năng lực TDST cho HS. Vì vậy trong quá trình dạy học, GV  
cần phải nắm chắc nội dung chương trình, đồng thời biết chọn lọc từng nội dung cụ thể để  
có kế hoạch rèn luyện phát triển năng lực TDST cho HS một cách toàn diện. Ngoài việc  
khai thác các nội dung trong chương trình sách giáo khoa ở các môn học, GV cần thiết kế  
các bài tập phong phú có tác dụng kích thích phát triển các yếu tố đặc trưng của TDST để  
làm phong phú chất liệu trong quá trình dạy học.  
Các giải pháp phát triển năng lực TDST trên đây được xem như một “chiến lược” dạy  
của GV trong dạy học phát triển năng lực TDST cho HS. Vì đây là một phương châm và  
biện pháp thực hiện có tính chất toàn cục, được vận dụng trong suốt quá trình dạy học  
nhằm thực hiện mục đích phát triển TDST cho HS. Các biện pháp trên gắn bó với nhau,  
biện pháp sau tiếp nối biện pháp trước trong suốt mỗi giờ học và cả quá trình dạy học.  
Những biện pháp này sẽ giúp HS phát triển năng lực TDST của mình vì nó có tác dụng làm  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 30/2019  
163  
cho HS phải vận dụng sáng tạo các thao tác tư duy cơ bản vào quá trình giải quyết các  
nhiệm vụ học tập. Mỗi biện pháp vừa có những tác dụng nhất định vừa có những tác dụng  
liên hoàn, tổng hợp cho việc kích thích năng lực TDST của HS trong quá trình học tập.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lý học văn nghệ, - Nxb TP. Hồ Chí Minh.  
2. Fisher R. (2005), Teaching children to think, - Nelson Thornes, Brazil.  
3. Hội Tâm lí - Giáo dục học Việt Nam (1997), “L.X.Vưgotxki nhà tâm lý học kiệt xuất thế kỉ  
XX (1896-1934)”, - Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.  
4. Nguyễn Đức Uy (1999), Tâm lý học sáng tạo, - Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
5. Nguyễn Huy Tú (1997), Đề cương bài giảng Tâm lý học sáng tạo, - Viện Khoa học Giáo dục,  
Hà Nội.  
6. Nguyễn Huy Tú (2006), Bộ trắc nghiệm sáng tạo TSD-Z của Klaus K.Urban với những ứng  
dụng ở nước ngoài và Việt Nam, - Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.  
7. Vưgotxki L.X. (1985), Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi, - Nxb Phụ nữ, Hà  
Nội.  
DEVELOPING CREATIVE THINKING  
FOR PRIMARY SCHOOL STUDENTS  
Abstract: Educating the young generation with creative personality is one of the leading  
tasks of education, including Primary Education. This is reflected in the purpose of all  
activities of the school, especially in the organization of learning activities aimed at the  
formation and development of students the qualities of a creative personality. We can  
develop creative thinking ability from the elementary level through the subjects and for  
all students (including students have average learning capacity) by creating a class that  
encourages students' thinking as well as the application of specialized measures in  
different ways and levels suitable for each group of students.  
Keywords: Developing creative thinking, situation and solutions, Primary school’  
students.  
pdf 15 trang yennguyen 06/04/2022 5460
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nang_luc_tu_duy_sang_tao_cho_hoc_sinh_tieu_hoc.pdf