Đào tạo kiến trúc sư thích ứng tốt hơn với môi trường làm việc quốc tế
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
ÑAØO TAÏO KIEÁN TRUÙC SÖ THÍCH ÖÙNG TOÁT HÔN VÔÙI
MOÂI TRÖÔØNG LAØM VIEÄC QUOÁC TEÁ
TS.KTS. NGUYEÃN QUOÁC TUAÂN
NHOÙM GIAÛNG VIEÂN
Tröôøng ÑH Phöông Ñoâng – Haø Noäi
MỞ ĐẦU
Thế giới hiện nay “phẳng’’ hơn trong mọi lĩnh vực, việc hành nghề của kiến
trúc sư trong môi trường quốc tế cũng trở nên linh hoạt và phổ biến hơn. Trong sân
chơi rộng lớn này, những kiến trúc sư được đào tạo từ những nước phát triển ở châu
Âu, Bắc Mỹ hay một số nước châu Á phát triển như Nhật Bản, Singapore không gặp
quá nhiều trở ngại khi hành nghề xuyên quốc gia. Trong khi đó, các kiến trúc sư được
đào tạo tại đa số các nước khác ở châu Á lại gặp những trở ngại lớn, các kiến trúc sư
Việt Nam cũng không ngoại lệ. Hầu hết các kiến trúc sư Việt Nam là những người
thông minh và nhiệt thành, luôn ấp ủ nhiều ý tưởng sáng tạo, nhưng luôn phải đối diện
với những khó khăn cố hữu khi phải “nhúng“ mình vào môi trường cạnh tranh quốc tế.
Họ chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng làm việc trong môi trường hành nghề đa văn
hóa vốn đòi hỏi không chỉ năng lực nghề nghiệp mà còn kinh nghiệm làm việc, sự
hiểu và bản lĩnh khi phải đối mặt với các đối thủ quốc tế.
Trước thực tế này, các cơ sở đào tạo phải làm gì để có những “sản phẩm” đầu ra
có thể cạnh tranh và tồn tại trong môi trường hành nghề ngày càng có tính quốc tế hóa
cao?
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO: CẦN GỌN, SÂU, SÁT MÔI TRƯỜNG HÀNH
NGHỀ
Trong những năm gần đây, số lượng KTS mới được các trường đào tạo cung
cấp cho xã hội mỗi năm một tăng. Theo ước tính, trong số gần 2000 kiến trúc sư gia
nhập thị trường hành nghề hàng năm trên cả nước, khoảng 98% được đào tạo trong
nước và 2% trở về sau quá trình học tập tại nước ngoài. Hiện, cả nước có 26 trường đại
học đang đào tạo KTS, trong đó gần một nửa số trường có thâm niên đào tạo ít hơn 15
năm. Như vậy, có thể thấy sự phát triển cực nhanh số lượng các trường mới triển khai
đào tạo KTS trong 10 năm trở lại đây (tăng gần gấp 2 lần), kèm theo đó là số lượng
tuyển sinh tăng mạnh, đặt ra câu hỏi lớn về khả năng đáp ứng của đội ngũ giảng viên,
kinh nghiệm và đảm bảo chất lượng đào tạo, chất lượng sản phẩm cung cấp ra thị
trường hành nghề.
53
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
Trong bối cảnh nở rộ đào tạo kiến trúc sư, khi các trường đang lạc quan tăng
dần chỉ tiêu tuyển sinh mỗi năm, thì ngược lại, số người muốn học ngành Kiến trúc lại
đang có xu hướng giảm dần. Về đầu ra, các đơn vị sử dụng nhân lực lại không thống
nhất trong cách đánh giá, tiếp nhận “sản phẩm” của các “lò” đào tạo bởi cách xây
dựng những “hệ giá trị” tuyển dụng và sử dụng khác nhau. Giữa nhà trường và doanh
nghiệp luôn tồn tại những vấn đề mà theo phía nào thì cũng đều được xem là chính
đáng.
Về chương trình đào tạo: các trường đều đưa vào chương trình các nội dung
kiến thức tương tự như nhau về kiến trúc công trình công cộng, nhà ở, cấu tạo, quy
hoạch; thiết kế đô thị; thiết kế cảnh quan;... Một số trường đưa vào giảng dạy sâu hơn
về kiến trúc bền vững; yếu tố bền vững trong quy hoạch, trang bị tư duy nghiên cứu về
đô thị… song nhìn chung, các chương trình đào tạo đều hướng mạnh về các nội dung
kỹ thuật, trang bị cho người học nhiều khái niệm, quy định, thông số có phần khô khan
về những chỉ tiêu, tiêu chuẩn, quy phạm, nguyên lý... Những nội dung đào tạo về tư
duy, sáng tạo với độ mở trong thiết kế chương trình chưa cao. Chương trình học rất
nhiều môn, dài (5 năm) theo kiểu Nga trước đây không thật sự có định hướng rõ ràng
nên đào tạo ra những sản phẩm rất “chung chung” và thiếu tính cạnh tranh quốc tế.
Ngay việc ba trường Đại học có thâm niên lâu năm là Kiến trúc Hà Nội, Kiến trúc
TP.HCM và Xây dựng Hà Nội đã đào tạo ngành Quy hoạch vùng và đô thị từ trên
dưới 20 năm nay song vẫn đang cấp bằng Kiến trúc sư quy hoạch cho những sinh viên
tốt nghiệp ngành này là cách làm có rất ít quốc gia trên thế giới thực hiện, vì nó thể
hiện sự thiếu logic trong việc xác định mục tiêu đào tạo và định hướng xây dựng
chương trình.
Trong khi đa số các cơ sở đào tạo châu Âu, và một phần châu Á đã chuyển đổi
theo hệ Bologna với mô hình 3 năm cho hệ Bachelor kiến trúc + 2 năm cho hệ Master,
thì tại Việt Nam, thời gian 5 năm chỉ đủ để có bằng tương đương Bachelor. Chúng ta
nên phân bổ thời gian đào tạo theo mô hình 1 năm Cơ sở (cho các môn đại cương bắt
buộc) + 3 năm chuyên ngành = 4 năm để lấy bằng Cử nhân Kiến trúc. Nếu sinh viên
muốn lấy bằng có tính chuyên môn cao hơn để hành nghề thì cần có thêm giai đoạn
thực tập từ nửa năm đến một năm tiếp theo, sau đó quay trở lại nhà trường làm Đồ án
tốt nghiệp (mức độ 2) trong nửa năm nữa = tổng thời gian 5 đến 5,5 năm. Chương
trình học 5 năm theo phương thức phân bổ này chắc chắn sẽ tốt hơn nhiều cách chúng
ta đang dạy dàn trải và thiếu định hướng thực tiễn hiện nay.
54
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
01 năm
Cơ sở +
Đại cương
03 năm
6 tháng đồ
án Tốt
nghiệp
(mức độ
2)
6 -12
tháng
thực tập
tại doanh
nghiệp
Chuyên ngành
CỬ NHÂN KIẾN TRÚC (4 năm)
CẤP BẰNG KIẾN TRÚC SƯ
Hình vẽ : Cấu trúc thời gian đào tạo và hình thức cấp bằng
Về chương trình, mỗi cơ sở đào tạo cần lựa chọn hướng đi tạo bản sắc và mạnh
dạn thay đổi triệt để để bám sát nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Việc định kỳ rà soát
chương trình để có những điều chỉnh kịp thời theo sự chuyển động của xã hội và công
nghệ là việc bắt buộc phải làm. Chu kỳ này có thể diễn ra đồng bộ với các đợt kiểm
định chương trình (3 - 5 năm). Trên thực tế, giáo trình của một số môn học cách đây
hơn 10 năm và hiện tại cũng không khác nhiều lắm. Vì vậy, có những môn học phải
đổi mới, có những môn phải được thay thế chứ không chỉ là thay đổi nội dung hoặc
phương pháp giảng dạy / học tập đơn thuần. Tuy nhiên, việc này rất khó ở nhiều
trường, do có liên quan đến công tác cán bộ và giảng viên.
Chương trình đào tạo cần có tính “mở” như: việc quy định đề cương của các
môn học nên mềm dẻo, cho phép giảng viên được điều chỉnh một tỷ lệ nhất định nội
dung giảng dạy hàng năm. Khi thiết kế chương trình cũng như xây dựng đề cương
môn học cần có khoảng mở cần thiết để các giảng viên có cơ hội phát huy sáng tạo,
làm nổi rõ hơn cái “tôi” của người dạy trong sự hài hòa của tổng thể chương trình
chung.
TĂNG NỘI DUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG ĐÀO TẠO KIẾN
TRÚC VÀ QUY HOẠCH
Kiến trúc – quy hoạch là một trong những lĩnh vực có mối quan hệ đa chiều đối
với khái niệm bền vững. Ngày nay, Kiến trúc bền vững không còn là khái niệm xa xỉ,
nó được trông đợi như một giải pháp toàn diện để đối phó với cuộc khủng hoảng của
chính nền văn minh đô thị. Kiến trúc sư, hơn ai hết, là người được giao trọng trách xây
dựng môi trường sống - góp phần quyết định sự thành công của mô hình phát triển bền
vững chung.
55
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
Khi nói tới kiến trúc xanh, người ta thường nghĩ đến việc áp dụng công nghệ
trong kiến trúc, nhằm giảm thiểu các tác động xấu mà dự án hoặc công trình kiến trúc
đó tác động lên môi trường tự nhiên. Trong bối cảnh thế giới đang ngày càng bị ảnh
hưởng nhiều hơn từ những hiện tượng tự nhiên bất thường gây ra bởi sự biến đổi khí
hậu, cần đưa các kiến thức về công trình xanh, phát triển bền vững và về biến đổi khí
hậu gắn với các giải pháp ứng phó, thích ứng hóa vào chương trình đào tạo kiến trúc
sư. Việc giảng dạy các nội dung kiến thức này cần thiết tại tất cả các bậc học từ Cử
nhân, Thạc Sĩ cho đến Tiến Sĩ. Các nội dung kiến thức mới này chắc chắn mang lại
nhiều lợi ích cho sinh viên kiến trúc, không chỉ trong học tập và mà còn cả hành nghề
trong tương lai khi họ đã có ý thức nhất định về việc phải thiết kế và quy hoạch hướng
tới yếu tố Xanh và Bền vững.
Bên cạnh các nội dung chuyên môn, các trường cần thiết kế nhiều chương trình/
hoạt động ngoại khóa bổ ích cho giảng viên, sinh viên và cả cộng đồng xã hội, để giúp
các nhóm đối tượng này có nhận thức rõ hơn về yếu tố Xanh và phát triển bền vững.
Các hoạt động này có thể là các buổi tọa đàm mở, các cuộc thi kiến trúc, các hoạt động
xã hội – cộng đồng… Các môn học cần được “link” giữa bài giảng trong không gian
giảng đường và không gian cảm nhận bên ngoài cuộc sống. Như vậy, phải linh hoạt
trong xây dựng chương trình đào tạo, linh hoạt trong điều chỉnh chương trình, linh
hoạt trong tổ chức đào tạo. Cần bổ sung và cập nhật các môn học: Kỹ thuật kiến trúc,
Môi trường kiến trúc, Tổ chức định cư…, đặc biệt chú ý giảng dạy về Công nghệ kiến
trúc và các giải pháp sống bền vững.
TÍNH “MỞ” VÀ “THỰC TIỄN” QUA CÁC WORKSHOP KIẾN TRÚC
Từ khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn đã đặt ra cho các nhà trường một
thách thức không nhỏ trong việc tăng tính thực tế cho sinh viên. Việc tổ chức đào tạo
đồ án kiến trúc theo hình thức workshop đã góp phần đưa thực tiễn đến gần hơn với
sinh viên, từ đó giảm thiểu độ vênh so với hoạt động chuyên môn trong thực tiễn hành
nghề. Trong thực tế, có thể xem “workshop” là một dự án mà trong đó các thành viên
cùng nhau trao đổi về một vấn đề cần giải quyết, cùng nhau đề ra một phương án “tập
thể” để giải quyết vấn đề đó. Workshop là hoạt động mang tính cộng đồng cao với
thành viên tham gia đa dạng tập hợp từ nhiều thành phần khác nhau từ những người
dân bình thường, cho đến các chuyên gia, các quan chức, các nhà chuyên môn,...
+ Workshop kiến trúc: đưa sinh viên đến gần thực tiễn hơn
Tại khoa Kiến trúc – công trình, trường đại học Phương Đông, kể từ năm 2009,
một số đồ án năm 4 yêu cầu sinh viên phải đi thực tế hiện trạng, phỏng vấn người dân
địa phương, làm phân tích kỹ lưỡng bối cảnh hiện trạng trước khi đề xuất giải pháp.
Các đồ án này được tổ chức dưới dạng các workshop nghiên cứu dài ngày (trung bình
6 - 8 tuần). Không chỉ có cơ hội được tiếp cận bối cảnh thiết kế thực, hiểu về các vấn
đề mà cộng đồng đang phải đối mặt thực, sinh viên phải thực hiện đồ án theo nhóm kết
56
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
hợp với các nội dung đề xuất cá nhân. Trong một số workshop đặc biệt, sinh viên còn
có cơ hội được trải nghiệm không khí học tập đa văn hóa với các bạn sinh viên nước
ngoài cùng chuyên ngành với hy vọng sẽ giúp sinh viên tích lũy được kinh nghiệm làm
việc trong môi trường đa văn hóa.
So sánh giữa đồ án trong nhà trường và đồ án thực tiễn sẽ có một số khác biệt
sau:
- Thứ nhất, sự eo hẹp về thời gian: Một đồ án trong nhà trường thường kéo dài
từ 8 – 10 tuần (với từ 1 – 2 buổi làm việc một tuần), có một số đồ án được thiết kế
thành 2 giai đoạn và kéo dài suốt một học kỳ. Trong thời gian này, sinh viên chủ yếu
tiếp cận với các số liệu hiện trạng đã được lược giản và ít được (hoặc ít tự chủ động)
đánh giá, phân tích hiện trạng trong thực tế. Thời gian chủ yếu là dành cho các bản vẽ
thiết kế. Do vậy, sinh viên thường xem nhẹ các vấn đề về thông tin hiện trạng. Đây là
sự khác biệt cơ bản so với các đồ án thực tiễn khi chúng ta phải dành thời gian nhiều
tháng chỉ cho công tác điều tra hiện trạng và phân tích các bối cảnh kinh tế - xã hội.
- Thứ hai, sự khác biệt trong định hướng phát triển đồ án và quá trình đánh
giá: Nhìn chung, sinh viên thường chỉ phát triển đồ án và duyệt bài với giáo viên
hướng dẫn, ít có cơ hội tiếp xúc và tiếp thu các quan điểm từ các nguồn khác như: điều
tra xã hội học, các nguồn thông tin địa phương, các chuyên gia khác, vv... Nhiều giáo
viên cũng khuyến khích sinh viên bay bổng quá mức, dẫn tới nhiều đồ án quá nặng về
tạo hình mà không hợp lý về công năng, vật liệu sử dụng và điều kiện khí hậu địa
phương. Do đó, các đồ án có tính thực tế thấp và có độ vênh nhất định. Bên cạnh đó,
quá trình phê duyệt đồ án trong thực tế hoàn toàn khác với việc đánh giá đồ án trong
trường, chỉ riêng các tiêu chí để phê duyệt đồ án trong thực tế đã khác rất xa các tiêu
chí chấm bài trong trường đại học. Việc này khiến sinh viên gặp nhiều bối rối, mất
phương hướng trong thời gian đầu bước vào môi trường hành nghề sau khi tốt nghiệp.
Từ những hạn chế nêu trên, rất cần tăng tính thực tiễn cho sinh viên trong khi
học tập. Tại trường đại học Phương Đông, chúng tôi tập trung nâng cao tính thực tiễn
trước tiên trong khâu giảng dạy đồ án kiến trúc – đặc biệt cho sinh viên các năm cuối,
và đã đạt được những kết quả cụ thể sau:
- Tăng tính thực tế cho người học do tiếp cận trực tiếp với địa điểm, cộng đồng,
bối cảnh xã hội, phải giải quyết các vấn đề thật.
- Tăng cường tính chủ động của các cá nhân và tập thể thông qua các hoạt động
nhóm.
- Tăng cường khả năng sáng tạo và bổ trỡ lẫn nhau cho các thành viên trong
nhóm thông qua các tranh luận nhằm đưa ra ý tưởng về một giải pháp “tập thể”.
- Tăng cường khả năng nhận thức và đề xuất giải pháp bám sát vấn đề thực tế,
được đánh giá nhiều lần với sự tham gia của cả đại diện cộng đồng địa phương.
57
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
- Tạo độ “mở” cho chương trình và nội dung đào tạo, có thể điều chỉnh nội
dung, đề bài từng năm để đảm bảo tính “mới” và tính “sát thực tiễn” của công tác đào
tạo.
Hình: Sinh viên Việt Nam & nước ngoài làm việc chung trong một workshop kiến trúc
quốc tế tổ chức tại trường đại học Phương Đông
+ Workshop kiến trúc: mô hình đào tạo có tính mở
Trong chương trình học hiện tại, các sinh viên kiến trúc sẽ phải thực hiện 03
workshop chuyên ngành với các đề bài có tính thực tiễn cao. Mỗi workshop có 8 - 10
buổi giảng chuyên đề lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Các đồ án sẽ được
đánh giá qua 3 đến 4 lần báo cáo: kết quả phân tích hiện trạng; ý tưởng sơ bộ; ý tưởng
chi tiết và bảo vệ cuối đợt học. Các nhóm sinh viên sẽ trình bày nghiên cứu trước hội
đồng gồm nhiều thành phần đến từ người dân, các giảng viên hướng dẫn, các chuyên
gia, vv…
Kinh nghiệm cho thấy, học đồ án theo nhóm (workshop) đã làm tăng tính thực
tiễn cho sinh viên thông qua quá trình nghiên cứu hiện trạng rất kỹ lưỡng, thực hiện
khảo sát xã hội học, nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan, vv… Học đồ án theo hình
thức này còn giúp sinh viên hoàn thiện các kỹ năng mềm về thuyết trình, làm việc
nhóm.
Đào tạo đồ án theo hình thức workshop cho phép tạo ra độ mở nhất định về nội
dung và phương thức. Trong khoảng mở này, các giảng viên và chuyên gia có thể bổ
sung / điều chỉnh / phân tách các khối lượng kiến thức đưa vào giảng dạy phù hợp với
vấn đề nghiên cứu từng năm. Các hoạt động của workshop đã giúp sinh viên nắm bắt
được vấn đề nghiên cứu một cách rõ ràng hơn, hiểu biết sâu sắc hơn về hiện trạng và
các vấn đề của cộng đồng, hiểu biết về lịch sử và những mâu thuẫn / thỏa thuận /
58
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
thương thuyết giữa các nhóm đối tượng trong quá trình phát triển đô thị. Khi hiểu biết
sâu sắc hiện trạng, biết được các căn nguyên của vấn đề, chắc chắn các giải pháp đề
xuất sẽ có chiều sâu hơn, gắn với thực tiễn hơn.
CẢI TIẾN HỆ THỐNG ĐỒ ÁN: TRÁNH DÀN TRẢI THEO LOẠI HÌNH
Bên cạnh việc đổi mới hệ thống các môn học chuyên ngành, cần đặc biệt quan
tâm tới việc giảng dạy và truyền nghề thông qua hệ thống đồ án kiến trúc. Việc học và
hoàn thành các đồ án là vô cùng quan trọng, không chỉ với các đồ án chuyên ngành mà
còn với cả các đồ án Kỹ thuật bổ trợ. Theo kinh nghiệm và thực tiễn trải nghiệm từ các
trường đại học nước ngoài, chúng ta cần cải tiến mạnh mẽ hệ thống đồ án theo hướng
mỗi học kỳ chỉ bố trí 01 đồ án loại hình + 01 đồ án bổ trợ tương ứng. Sau mỗi giai
đoạn hoàn thiện ý đồ sẽ là các đồ án kỹ thuật bổ trợ phù hợp với nội dung của đồ án
chính, cũng như trình độ của sinh viên theo từng năm học. Các đồ án kỹ thuật được
phân bổ song song cùng môn học bổ trợ tương thích sẽ trang bị cho sinh viên những
kiến thức cần thiết. Hệ thống môn học bổ trợ này phải rất đa dạng để sinh viên có thể
lựa chọn hướng phát triển theo sở thích và khả năng. Việc dạy quá nhiều loại hình đồ
án, rộng nhưng không sâu như hàng chục năm qua chúng ta đã áp dụng có lẽ cần phải
xem xét lại.
Tại trường đại học Phương Đông, sinh viên năm II đã được học rất kỹ cách “bổ
kỹ thuật” một công trình nhà ở 3 - 5 tầng. Hoàn thành đồ án này, sinh viên sẽ nắm
vững các chi tiết kỹ thuật kiến trúc cơ bản của một công trình quy mô nhỏ, để từ đó,
sinh viên có thể sáng tạo ý tưởng kiến trúc hợp lý cho các đồ án kiến trúc sau. Với năm
III, các đồ án đều có “địa chỉ” cụ thể. Các yêu cầu phân tích, thuyết minh đồ án kiến
trúc theo phương pháp khoa học cần được đưa vào giảng dạy trong khuôn khổ các đồ
án, giúp sinh viên có “phản xạ” phân tích kỹ lưỡng và sâu sắc hơn về một công trình.
Ví dụ, để hoàn thành đồ án thiết kế chung cư, sinh viên phải tìm hiểu rõ khu đất dựa
trên các yêu cầu về chỉ giới xây dựng, mật độ xây dựng, tầng cao, phân tích các tác
động tự nhiên, các tác động kinh tế xã hội,... để trả lời được lý do vì sao một chung cư
cần phải được xây dựng tại đó và nếu lựa chọn địa điểm đó thì phải tuân thủ những
quy định gì, cần định hướng giải pháp theo cách nào… Bên cạnh đó, sinh viên được
yêu cầu phân tích các tiêu chí chuyên môn khác như điểm nhìn ưu tiên, các phương án
thiết kế gắn với tiêu chí bền vững, sử dụng vật liệu hoàn thiện hay đề xuất thiết kế ánh
sáng cho công trình… Sau khi hoàn thành đồ án, sinh viên phải thực hiện bước quan
trọng cuối cùng đó là bảo vệ đồ án. Việc bảo vệ đồ án trước chuyên gia / giảng viên
giúp cho sinh viên luôn có ý thức thực hiện đồ án một cách cẩn trọng nhất, rèn luyện
tính chuyên nghiệp cần thiết và sự tự tin bảo vệ ý tưởng kiến trúc của mình.
Cần tiến hành đánh giá kết quả cuối cùng của một đồ án theo hai hoặc nhiều
giai đoạn: giai đoạn hình thành và chốt ý tưởng (chiếm 2/3 thời gian đầu với tỷ lệ điểm
bài thể hiện nhanh chiếm 1/3 tổng điểm) và giai đoạn triển khai ý tưởng (chiếm 1/3
thời gian cuối với tỷ lệ điểm bài đồ án nộp chiếm 2/3 tổng điểm). Tại trường đại học
59
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
Phương Đông, các lớp thuộc chuyên ngành Kiến trúc Phương Đông được tổ chức bảo
vệ đồ án trước hội đồng giảng viên. Việc phân đoạn trong quá trình thực hiện một đồ
án đòi hỏi sinh viên phải nỗ lực hơn, phải làm việc nghiêm túc ngay từ đầu để đạt yêu
cầu đề ra.
Ngoài các vấn đề thuần chuyên môn, không thể không nhắc đến việc tăng
cường giám sát quá trình dạy và học đồ án. Ví dụ: thông qua việc quản lý chặt chẽ và
nghiêm túc, Khoa Kiến trúc - công trình của trường đại học Phương Đông luôn công
bố danh sách không đạt điều kiện thể hiện vào tuần học cuối cùng của mỗi đồ án. Tỷ lệ
trung bình được thể hiện đồ án đạt khoảng 65 đến 80%. Số sinh viên không đạt điều
kiện thể hiện bắt buộc phải đăng ký học lại với các lớp môn đồ án được mở ở các học
kỳ sau.
QUỐC TẾ HÓA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, HƯỚNG ĐẾN GIA NHẬP CÁC TỔ
CHỨC CÔNG NHẬN VĂN BẰNG TƯƠNG ĐƯƠNG
Môi trường hành nghề quốc tế và thị trường nhân lực ngành kiến trúc đã đặt ra
một thách thức rất lớn mà chúng ta không nên và không thể bỏ qua trong bối cảnh nền
kinh tế ngày cảng mở cửa, các dịch vụ cũng phải mở cửa theo cam kết WTO và các
hiệp định thương mại khác trong thời gian tới đây như TPP và nhiều FTA khác. Trong
bối cảnh thị trường thiết kế kiến trúc ở Việt Nam đang bị cạnh tranh quyết liệt, chúng
ta đang vất vả tìm cách giữ thị trường nội địa trong lúc các tổ chức thiết kế nước ngoài
đã liên tục “xuất khẩu” dịch vụ sang các nước chậm phát triển hơn, đã đến lúc chúng
ta cần đặt ra một cách nghiêm túc một chương trình hành động để nâng cao kỹ năng
cạnh tranh cho các kiến trúc sư và các tổ chức tư vấn “nội địa“. Đã có nhiều chương
trình của Nhà nước nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho một số lĩnh vực công
nghiệp – dịch vụ quan trọng, song trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn xây dựng thì cho đến
nay vẫn chưa có một kế hoạch bài bản và dài hơi. Hội Kiến trúc sư Việt Nam phải là
cơ quan có ý kiến tham gia kiến nghị với Bộ Xây dựng về việc xây dựng một chương
trình dài hạn nâng cao năng lực hành nghề và cạnh tranh quốc tế cho giới kiến trúc sư
Việt Nam. Trong chương trình chiến lược này, khâu đào tạo nhất định phải là một
khâu quan trọng, then chốt.
Những cơ sở đào tạo kiến trúc sư Việt Nam có thể làm gì để giúp các kiến trúc
sư tương lai nâng cao năng lực quan trọng và cần thiết này trước khi bước vào môi
trường hành nghề vốn ngày càng quốc tế hóa? Từ những kinh nghiệm khiêm tốn thu
nhận được trong việc tham gia các hoạt động của Ủy ban Đào tạo Kiến trúc sư
ARCASIA (Hiệp hội Kiến trúc sư châu Á) và quá trình học tập, tiếp thu kiến thức của
các môn học liên quan đến hành nghề kiến trúc sư trong môi trường đa văn hóa tại
nước ngoài, chúng tôi mong muốn được chia sẻ những trăn trở, suy nghĩ với mong
muốn được tiếp tục hoàn thiện môi trường đào tạo kiến trúc sư thực sự hiệu quả - nơi
các kiến trúc sư sau khi tốt nghiệp có thể tự tin hoạt động nghề nghiệp trong những
môi trường chuyên nghiệp. Một số giải pháp cụ thể được đề xuất như sau:
60
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
- Phải đổi mới triệt để chương trình đào tạo kiến trúc sư, tiệm cận xu hướng
quốc tế bằng việc học hỏi, tích hợp các chương trình đào tạo từ các nước phát triển để
thúc đẩy và xây dựng những chương trình đào tạo hiện đại, có chất lượng, đẳng cấp
quốc tế của Việt Nam. Việc định kỳ rà soát chương trình để có những điều chỉnh kịp
thời theo sự chuyển động của xã hội và công nghệ là việc bắt buộc phải làm. Chu kỳ
này có thể diễn ra đồng bộ với các đợt kiểm định chương trình (3 - 5 năm). Hội Kiến
trúc sư Việt Nam cần sớm thành lập Hội đồng Tư vấn – Kiểm định chất lượng chương
trình đào tạo, kiểm định định kỳ chương trình của các trường và có khuyến cáo cộng
đồng xã hội, người học về chất lượng của các chương trình được kiểm định.
- Khi thiết kế chương trình cũng như xây dựng đề cương môn học, cần có
khoảng mở cần thiết để các giảng viên có cơ hội phát huy sáng tạo. Cần cởi trói tư duy
để hướng người dạy và người học đến việc hòa nhập với dòng chảy của thế giới một
cách thực sự. Cần linh hoạt trong xây dựng chương trình đào tạo, điều chỉnh chương
trình đào tạo và trong tổ chức đào tạo.
- Xây dựng tư duy đa ngành trong việc thiết kế chương trình, xác định các mục
tiêu đào tạo và nghiên cứu. Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh
quốc tế ngày càng sâu rộng, những vấn đề nếu chỉ được giải quyết bằng tư duy đơn
ngành sẽ sớm bị lỗi thời và mất đi khả năng cạnh tranh.
- Phải nâng cao năng lực của chính những giảng viên chuyên ngành, họ là
những nhân tố quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng và tác động trực tiếp tới chất lượng
đào tạo. Họ cần được tạo điều kiện để trải nghiệm nhiều hơn ở cả môi trường hành
nghề lẫn môi trường đào tạo, cả ở trong nước và nước ngoài. Việc tuyển chọn lực
lượng này cần có sự chọn lọc thực sự kỹ lưỡng. Cần đặt niềm tin ở những người Thầy
– bởi họ chính là nguồn truyền động quan trọng để làm chuyển động cỗ máy.
- Coi trọng việc xây dựng môi trường đào tạo kiến trúc sư theo tiêu chuẩn quốc
tế, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất liên quan. Đặc biệt phải ưu tiên việc nâng cấp
các không gian học tập, nghiên cứu chuyên ngành cho giảng viên và sinh viên. Cần
nghiêm túc nhìn nhận vai trò quan trọng của hệ thống thư viện để có sự đầu tư xác
đáng. Thư viện của các trường cần được số hóa và tham gia chia sẻ chung với mạng trí
tuệ toàn cầu - nơi các nhà nghiên cứu, các nhà xuất bản hàng đầu bán và chia sẻ cho
nhau các bài báo, dự án nghiên cứu...
- Khuyến khích và hỗ trợ sinh viên Việt Nam tìm kiếm cơ hội kết nối, trải
nghiệm các hoạt động rèn luyện nghề nghiệp quốc tế thông qua các hoạt động hợp tác
đào tạo, trao đổi nghiên cứu học thuật…
- Coi trọng việc đào tạo “năng lực cá nhân” cho sinh viên như việc nâng cao
chất lượng dạy và học ngoại ngữ, xây dựng kỹ năng mềm. Đặc biệt cần đào tạo và
giúp sinh viên kiến trúc hình thành lòng tự trọng nghề nghiệp thật sự. Đây là những
61
Hội thảo “Đào tạo Kiến trúc & các ngành Thiết kế, Xây dựng trong xu hướng toàn cầu hóa “
_________________________________________________________________________________________
yếu tố quan trọng giúp các kiến trúc sư tương lai tự tin khi tham gia vào những dự án
xây dựng đa quốc gia.
- Các cơ sở đào tạo trong nước hơn bao giờ hết cần có sự kết nối và hợp tác
thường xuyên hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên và sinh viên có cơ hội gặp
gỡ, trao đổi kiến thức chuyên môn,…để cùng nhau thiết lập nên hệ thống đào tạo
chuyên ngành kiến trúc thực sự hiệu quả, đạt chất lượng quốc tế tại chính nước nhà.
Bên cạnh việc tích cực thâm nhập sâu hơn vào các định chế quốc tế, trong đó có
cả lĩnh vực kiến trúc để nắm thông tin, xây dựng các kế hoạch thích ứng hóa, công tác
đào tạo cần được đặt vào vị trí trọng tâm của các kế hoạch và chương trình hội nhập
của Nhà nước. Các nhà trường cần được quan tâm đầu tư một cách thích đáng để có
thể tạo ra những đột phá trong việc cải tiến chương trình, từ những việc thường xuyên
như cử giảng viên và sinh viên tham gia các khóa học / chương trình thực tập quốc tế,
nâng cấp cơ sở vật chất và hệ thống thư viện... cho tới các chiến lược giáo dục đào tạo
dài hạn và căn cơ.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh các cơ sở đào tạo kiến trúc sư đang có những hướng đi và mục
tiêu không hoàn toàn giống nhau, thì từng cơ sở đào tạo nên lựa chọn những phương
thức riêng phù hợp để đảm bảo sinh viên tốt nghiệp phát huy được tối đa những kiến
thức “nền” đã được học trong nhà trường. Mô hình chương trình khung trước đây nay
đã không còn phù hợp bởi tư duy cứng hóa và tính “mở” thấp. Để có những “sản
phẩm” có khả năng cạnh tranh tốt trong môi trường hành nghề quốc tế, cần xây dựng
những mô hình đào tạo tương thích và có khả năng liên thông với các nước tiên tiến
đang áp dụng. Tùy thuộc vào mục tiêu và thế mạnh riêng, mỗi cơ sở đào tạo sẽ phải
tìm hướng đi thích hợp để đổi mới, thích ứng, cạnh tranh và vượt lên trong làn sóng
toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Giáo dục là một lĩnh vực mà sản phẩm của nó chưa thể đánh giá ngay được, mà
cần phải có một thời gian nhất định. Chính vì vậy, có những công việc chúng ta đang
làm, đang cố gắng đổi mới hôm nay sẽ có thể nhìn thấy thành quả sau 10 – 15 năm
nữa. Nếu làm đúng hoặc sai ngày hôm nay, cơ hội để thành công hay phải sửa chữa sai
lầm đều có thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, không vì lo ngại hay vì cơ chế kém
linh hoạt mà chúng ta từ bỏ cơ hội đổi mới, quan trọng là, cần có tư duy cởi mở và
chấp nhận thay đổi. Nếu vẫn theo lối mòn cũ, vai trò của nhà trường sẽ dần lép vế so
với vai trò đào tạo của xã hội.
Xin đặt kỳ vọng sâu xa vào những gì mới mẻ còn đang ở phía trước./.
62
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo kiến trúc sư thích ứng tốt hơn với môi trường làm việc quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dao_tao_kien_truc_su_thich_ung_tot_hon_voi_moi_truong_lam_vi.pdf