Bài giảng Kỹ năng tư duy sáng tạo - Trần Hữu Trần Huy

BỘ TÀI CHÍNH  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING  
VIỆN NGHIÊN CỨU KINH TẾ ỨNG DỤNG  
BỘ MÔN KỸ NĂNG MỀM  
KỸ NĂNG  
TƯ DUY SÁNG TẠO  
(Bậc Đại học chương trình Chất lượng cao, Đặc biệt, Quốc tế và Đại trà;  
dùng cho cả bậc Cao đẳng chương trình Chất lượng cao, Đại trà  
học phần kỹ năng Tư duy hiệu quả)  
Chủ biên: ThS. Trần Hữu Trần Huy  
Thành viên biên soạn:  
ThS. Lại Thế Luyện  
ThS. Nguyễn Thị Trường Hân  
ThS. Nguyễn Đông Triều  
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019  
LỜI NÓI ĐẦU  
Trong những năm gần đây, thực trạng vấn đề tuyển dụng tại đa số các doanh  
nghiệp cho thấy: hầu hết sinh viên mới ra trường có tỉ lệ thành công khi xin việc là rất  
thấp. Bên cạnh những thiếu thốn nhất định về kiến thức chuyên ngành, một lý do quan  
trọng phải kể đến đó chính là việc thiếu các kỹ năng mềm cần thiết để hòa nhập và thành  
công trong công việc. Đáp ứng nhu cầu lớn lao đó, Bộ môn Kỹ năng mềm ra đời nhằm  
trang bị cho sinh viên một số kỹ năng thiết yếu để các bạn có được nhiều lợi thế cạnh  
tranh hơn trong quá trình học tập cũng như hoạt động nghề nghiệp sau này. Trong những  
kỹ năng đó, có thể nói, tư duy hiệu quả và sáng tạo là một kỹ năng vô cùng quan trọng.  
Tập bài giảng các bạn đang cầm trên tay sẽ chia sẻ những nội dung cốt lõi của tư  
duy hiệu quả và sáng tạo, từ những vấn đề lý luận căn bản đến những hướng dẫn cụ thể để  
hình thành và phát triển các kỹ năng giúp bạn có thể suy nghĩ hiệu quả hơn và sáng tạo  
trong học tập, trong công việc và cuộc sống. Vận dụng tốt các kỹ năng này, bạn sẽ nhận  
thấy sự cải thiện rõ rệt trong tư duy, trong giao tiếp và hoạt động nhóm.  
Để học tốt và ứng dụng được những kiến thức này, bên cạnh việc tham gia đầy đủ  
và tích cực các hoạt động tại lớp, sự tự học và tham khảo của các bạn để hoàn tất các bài  
tập tình huống được đưa ra trong tài liệu là một yêu cầu không thể thiếu.  
Dựa trên nhiều nguồn tham khảo đáng tin cậy, chúng tôi đã cố gắng tìm ra cách  
tiếp cận mới để tập bài giảng không rơi vào “lối mòn”. Tuy nhiên, do có nhiều quan điểm  
khác nhau về cấu trúc cũng như nội dung của Kỹ năng tư duy hiệu quả và sáng tạo, và do  
lần đầu ra mắt nên tài liệu khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi rất mong  
nhận những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô, các bạn sinh viên và bạn đọc nói  
chung để tài liệu này được hoàn thiện hơn trong những lần cập nhật sau.  
Việc biên soạn bài giảng được phân công như sau:  
Phần 1: ThS. Trần Hữu Trần Huy, ThS. Nguyễn Thị Trường Hân, ThS. Nguyễn  
Đông Triều  
Phần 2: ThS. Lại Thế Luyện, ThS. Nguyễn Đông Triều, ThS. Nguyễn Thị Trường  
Hân, ThS. Trần Hữu Trần Huy  
1
Phần 3: ThS. Nguyễn Thị Trường Hân, ThS. Nguyễn Đông Triều.  
Mọi thư từ góp ý xin được gửi về: Bộ môn Kỹ năng mềm - Viện Nghiên cứu Kinh  
tế ứng dụng – Trường Đại học Tài chính Marketing.  
Nhóm biên soạn tài liệu  
2
PHẦN 1  
TỔNG QUAN VỀ TƯ DUY SÁNG TẠO  
A. MỤC TIÊU  
Sau khi học xong phần này, sinh viên có thể:  
- Giải thích được bản chất của sáng tạo và tư duy sáng tạo.  
- Nhận thức được vai trò của tư duy sáng tạo đối với sự phát triển của bản thân  
trong học tập, trong công việc cũng như trong cuộc sống.  
- Phân tích các rào cản của tư duy sáng tạo.  
- Nhận diện các đặc điểm của những người sáng tạo.  
- So sánh sáng tạo và trí thông minh.  
- Đánh giá điểm mạnh, điểm hạn chế trong tư duy của bản thân, từ đó xây dựng  
kế hoạch để cải thiện khả năng tư duy theo hướng sáng tạo hơn cũng như rèn luyện những  
thói quen cho sự sáng tạo.  
B. NỘI DUNG  
SUY NGHĨ KHÁC BIỆT  
Nhà vật lý từng đạt giải Nobel, Albert Szent-Gyorgyi có một câu nói rất hay: “Khám phá  
bao gồm việc nhìn những điều mọi người đều nhìn thấy và nghĩ ra một điều gì đó khác  
biệt”.  
3
Như theo cách nói của nhiều người: “Trong một thế giới phẳng, cái gì tạo nên sự khác  
biệt thì cái đó có giá trị”. Nói cách khác, để trở nên sáng tạo hơn, tất cả những gì chúng  
ta cần làm là “nhìn những điều mọi người đều nhìn thấy” và “nghĩ ra một điều gì đó  
khác biệt”.  
Nhưng tại sao chúng ta không “nghĩ ra một điều gì đó khác biệt” thường xuyên hơn?  
Roger Von Oech, tác giả của cuốn sách “Cú đánh thức tỉnh trí sáng tạo” đã đưa ra  
những lý do sau:  
Thứ nhất: Chúng ta nghĩ chúng ta không phải sáng tạo trong mọi công việc. Chúng ta  
luôn có những thói quen nhất định trong cuộc sống. Trong hoạt động của con người,  
những thói quen đó là những điều không thể thiếu. Không có chúng, cuộc sống của chúng  
ta sẽ trở nên hỗn loạn và con người không thể đạt được nhiều thành tựu như hiện nay.  
Sống với lối suy nghĩ thường nhật cho phép chúng ta làm được rất nhiều việc mà không  
phải băn khoăn về chúng.  
Thứ hai, chúng ta không được dạy để làm như vậy. Hệ thống giáo dục của chúng ta là trò  
chơi công phu “đoán xem giáo viên đang nghĩ gì”. Nhiều người được dạy rằng những ý  
tưởng xuất sắc nhất nằm trong đầu người khác.  
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cần phải sáng tạo và tạo ra những con đường mới để đạt  
được mục tiêu của mình. Khi điều này xảy ra, hệ thống lòng tin của chính chúng ta có thể  
ngăn chúng ta làm như vậy. Và đây chính là lý do thứ ba. Hầu hết chúng ta đều có thái  
độ khóa chặt tư duy của chúng ta và khiến chúng ta tư duy “đơn điệu hơn”. Những thái  
độ đó cần thiết cho hầu hết những việc chúng ta làm nhưng lại trở thành vật cản khi  
chúng ta cố gắng sáng tạo.  
4
“Mỗi ngày là một mặt trời mới”. Câu nói trên của Heraclitus vẫn rất đúng trong  
thời đại ngày nay. Nó mô tả một thế giới không ngừng thay đổi, nơi những sự vật mới  
xuất hiện sẽ thay thế cho những sự vật cũ. Và hầu hết mọi người đều biết rằng tư suy sáng  
tạo là kỹ năng sống còn trong thế giới biến đổi ấy.  
Kỹ năng tư duy nói chúng, kỹ năng tư duy sáng tạo nói riêng, là một trong những  
kỹ năng có giá trị nhất mà ngày nay mà chúng ta có thể học. Trong khi ở quá khứ, người  
ta làm việc dựa vào kỹ năng cơ bắp, thì ngày nay ta làm việc dựa trên kỹ năng tư duy.  
Chúng ta đang sống trong thời đại thông tin, đó là lý do khiến trí não thay thế cơ bắp, và  
sức mạnh tư duy có thể thay thế sức mạnh tay chân.  
Dù bạn làm việc trong ngành nghề nào, hay là bạn thích loại công việc như thế  
nào, bạn luôn cần phải ứng dụng các kỹ năng tư duy vào công việc bạn làm. Bạn phải sử  
dụng nó trong việc ra quyết định, thu thập, sử dụng và phân tích thông tin; cùng hợp tác  
với người khác để giải quyết vấn đề; đóng góp ý tưởng đổi mới sáng tạo hay nghĩ ra cách  
cải tiến công việc của bản thân mình.  
Việc hiểu biết về bản chất của sáng tạo và tư duy sáng tạo sẽ giúp bạn tự đánh giá  
những điểm mạnh, điểm hạn chế trong tư duy của bản thân, từ đó có thể xây dựng kế  
hoạch để cải thiện khả năng tư duy theo hướng sáng tạo hơn.  
1. KHÁI NIỆM TƯ DUY SÁNG TẠO  
1.1. Khái niệm tư duy  
1.1.1. Các định nghĩa tư duy  
Dưới góc độ sinh lý học, tư duy được hiểu là một hình thức hoạt động của hệ thần  
kinh thể hiện qua việc tạo ra các liên kết giữa các phần tử đã ghi nhớ được chọn lọc và  
kích thích chúng hoạt động để thực hiện sự nhận thức về thế giới xung quanh, định hướng  
cho hành vi phù hợp với môi trường sống.  
Dưới góc độ tâm lý học, tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận thức  
bậc cao ở con người. Tư duy là một quá trình tâm lý phản ảnh những thuộc tính bản chất,  
những mối liên hệ và quan hệ bên trong, có tính chất qui luật của sự vật, hiện tượng trong  
hiện thực khách quan.  
5
Tư duy không những giải quyết được những nhiệm vụ trước mắt mà còn có thể  
giải quyết cả những nhiệm vụ trong tương lai. Tư duy tiếp nhận thông tin và cải tạo sắp  
xếp thông tin, làm cho những thông tin này có ý nghĩa hơn trong hoạt động của con  
người.  
Cơ sở sinh lý của tư duy là hoạt động của võ đại não. Hoạt động tư duy đồng nghĩa  
với hoạt động trí tuệ. Mục tiêu của tư duy là tìm ra các triết lý, lý luận, phương pháp luận,  
phương pháp, giải pháp trong các tình huống hoạt động của con người. [24]  
1.1.2. Phân loại tư duy  
Có nhiều cách phân loại tư duy, sau đây là một số cách phân loại phổ biến:  
Theo GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn, GS.TS Nguyễn Văn Lê và nhà giáo Châu An, tư  
duy được chia ra làm các loại sau:  
- Các loại tư duy cơ bản, phổ biến: tư duy logic (dựa trên luật bài trung và tam  
đoạn luận), tư duy biện chứng và tư duy hình tượng.  
- Xét về mức độ độc lập, tư duy được chia thành 4 bậc: tư duy lệ thuộc, tư duy độc  
lập, tư duy phê phán (phản biện), tư duy sáng tạo.  
- Xét đặc điểm của đối tượng để tư duy, tư duy được chia ra làm 2 loại: tư duy trừu  
tượng và tư duy cụ thể.  
Theo GS.TS Nguyễn Quang Uẩn và nhiều tác giả nghiên cứu về tâm lý học đại  
cương, tư duy được phân loại như sau:  
- Xét về mức độ phát triển của tư duy có thể chia tư duy làm 3 loại: Tư duy trực  
quan – hành động (con người giải quyết nhiệm vụ bằng những hành động cụ thể, thực tế);  
Tư duy trực quan – hình ảnh (tư duy phụ thuộc vào hình ảnh của đối tượng đang tri giác);  
Tư duy trừu tượng (giải quyết nhiệm vụ dựa trên việc sử dụng các khái niệm, các kết cấu  
logic, được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ).  
- Xét theo hình thức biểu hiện của nhiệm vụ và phương thức giải quyết vấn đề, có:  
Tư duy thực hành (nhiệm vụ được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể,  
phương thức giải quyết là những hành động thực hành); Tư duy hình ảnh cụ thể (giải  
quyết nhiệm vụ dựa trên những hình ảnh trực quan đã có); Tư duy lý luận (nhiệm vụ đề ra  
dưới hình thức lý luận, và giải quyết nhiệm vụ đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu  
tượng, những tri thức lý luận).  
6
1.1.3. Các cấp độ tư duy  
Theo nhà giáo dục Mỹ Benjamin S. Bloom, tư duy của con người gồm 6 cấp độ,  
thường được gọi tắt là Thang Bloom (1956) hay Bảng phân loại Bloom (Bloom’s  
Taxonomy):  
Cấp độ 1: Biết (Knowledge) – có thể nhắc lại những tài liệu đã học trước đó bằng  
cách gợi nhớ các sự kiện, thuật ngữ và khái niệm cơ bản.  
Cấp độ 2: Hiểu (Comprehension) – chứng tỏ việc hiểu vấn đề và ý tưởng thông  
qua khả năng sắp xếp, so sánh, diễn giải trình bày các ý chính.  
Cấp độ 3: Vận dụng (Application) – Giải quyết các vấn đề bằng cách vận dụng  
những kiến thức đã học, các sự kiện, phương pháp và quy tắc theo những cách khác nhau.  
Cấp độ 4: Phân tích (Analysis) - nghiên cứu và phân chia thông tin thành từng  
phần thông qua việc xác định động cơ và lý do; tạo ra các lập luận và tìm ra các luận cứ  
để bổ trợ cho việc khát quát hóa.  
Cấp độ 5: Tổng hợp (Synthesis) – biên soạn và tổng hợp thông tin lại với nhau  
theo những cách khác nhau, đề xuất những giải pháp thay thế.  
Cấp độ 6: Đánh giá (Evaluation) – Trình bày và bảo vệ ý kiến bằng cách đưa ra  
những phán đoán về thông tin, tính hợp lý của các ý kiến hoặc chất lượng công việc dựa  
trên các tiêu chí, chuẩn mực.  
Nhận thấy thang trên chưa thật sự hoàn chỉnh, vào giữa thập niên 1990, Lorin  
Anderson, một học trò của Benjamin Bloom, đã cùng một số cộng sự đề xuất sự điều  
chỉnh (Pohl, 2000) như sau:  
Cấp độ 1: Nhớ (Remembering): Có thể nhắc lại các thông tin đã được tiếp nhận  
trước đó. Ví dụ: Viết lại một công thức, đọc lại một bài thơ, mô tả lại một sự kiện, nhận  
biết phương án đúng.  
Cấp độ 2: Hiểu (Understanding): Nắm được ý nghĩa của thông tin, thể hiện qua  
khả năng diễn giải, suy diễn, liên hệ, khái quát. Ví dụ: Giải thích một định luật, phân biệt  
cách sử dụng các thiết bị, viết tóm tắt một bài báo, trình bày một quan điểm.  
Cấp độ 3: Vận dụng (Applying): Áp dụng thông tin đã biết vào một tình huống,  
điều kiện mới. Ví dụ: Vận dụng một định luật để giải thích một hiện tượng, áp dụng một  
công thức để tính toán, thực hiện một thí nghiệm dựa trên qui trình.  
7
Cấp độ 4: Phân tích (Analyzing): Chia thông tin thành những phần nhỏ và chỉ ra  
mối liên hệ của chúng tới tổng thể. Ví dụ: Lý giải nguyên nhân thất bại của một doanh  
nghiệp, hệ thống hóa các văn bản pháp qui, xây dựng biểu đồ phát triển của một doanh  
nghiệp.  
Cấp độ 5: Đánh giá (Evaluating): Đưa ra nhận định, phán quyết của bản thân đối  
với thông tin dựa trên các chuẩn mực, tiêu chí. Ví dụ: Phản biện một nghiên cứu, bài báo;  
đánh giá khả năng thành công của một giải pháp; chỉ ra các điểm yếu của một lập luận.  
Cấp độ 6: Sáng tạo (Creating): Xác lập thông tin, sự vật mới trên cơ sở những  
thông tin, sự vật đã có. Ví dụ: Thiết kế một mẫu nhà mới, xây dựng một công thức mới,  
sáng tác một bài hát; xây dựng hệ thống các tiêu chí để đánh giá một hoạt động; đề xuất  
hệ thống các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế; xây dựng cơ sở lý luận cho một  
quan điểm; lập kế hoạch tổ chức một sự kiện mới.  
(Nguồn: Internet)  
Có ba sự thay đổi đáng lưu ý trong sự điều chỉnh này so với Thang Bloom: (1) cấp  
độ tư duy thấp nhất là Nhớ thay vì Biết, (2) cấp Tổng hợp được bỏ đi và đưa thêm Sáng  
tạo vào mức cao nhất, (3) các danh động từ được thay cho các danh từ. Sự điều chỉnh này  
sau đó đã nhận được sự ủng hộ bởi đa số các cơ sở giáo dục, nhất là các trường đại học –  
nơi đề cao các hoạt động giúp phát triển năng lực sáng tạo của người học. (Trích trong bài  
viết “Thang cấp độ tư duy Bloom” của TS. Lê Văn Hảo – Trường ĐH Nha Trang).  
8
Như vậy, có thể thấy, sáng tạo là cấp độ tư duy cao nhất của con người. Việc phát  
triển tư duy sáng tạo cho người học đang được đề cao trong các trường học ở nước ta hiện  
nay, đặc biệt là sinh viên các trường cao đẳng, đại học.  
1.2. Khái niệm sáng tạo và tư duy sáng tạo  
1.2.1. Định nghĩa về sáng tạo và tư duy sáng tạo  
Theo từ điển triết học, sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những  
giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác định bởi đặc trưng  
nghề nghiệp như khoa học, kỹ thuật, văn học nghệ thuật, tổ chức, quân sự... Có thể nói  
sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần (Phan Dũng).  
Cái chính yếu của sáng tạo là sự mới mẻ của nó, và bởi thế chúng ta không có tiêu  
chuẩn qua đó có thể xét đoán nó (Carl Roger).  
Nhà tâm lý học Nga L.X. Vưgốtxki khẳng định: “Sự sáng tạo thật ra không phải  
chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác phẩm lịch sử vĩ đại, mà ở khắp nơi nào con người tưởng  
tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra một cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi  
nữa so với những sáng tạo của các thiên tài”. Trong đời sống hàng ngày, xoay quanh  
chúng ta, sáng tạo là một điều kiện cần thiết của sự tồn tại và tất cả cái gì vượt qua khuôn  
khổ cũ và chứa đựng dù chỉ một nét của cái mới, thì nguồn gốc của nó đều do quá trình  
sáng tạo của con người. [19]  
Sáng tạo còn có nghĩa là tạo ra giá trị mới, giá trị mới đó có ích hay có hại là tùy  
theo quan điểm người sử dụng và đối tượng nhận hiệu quả của việc sử dụng. Ở đây, ta  
luôn coi giá trị mới là có ích cho đối tượng nhận hiệu quả của việc sử dụng [24].  
Theo GS.TS Phạm Thành Nghị, sáng tạo có thể được coi là quá trình tiến tới cái  
mới, là năng lực tạo ra cái mới, sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản phẩm mới, độc đáo  
và có giá trị. [14, trang 28]  
Theo TS. Huỳnh Văn Sơn, sáng tạo gồm 3 thuộc tính cơ bản [19]:  
- Tính mới mẻ: Sáng tạo phải tạo ra cái gì đó mới mẻ, có thể là mới đối với cá  
nhân hoặc mới đối với xã hội.  
- Tính độc lập – tự lập: Tính độc lập – tự lập tồn tại trong cả tư duy và hoạt  
động. Nó không phải là tính cá nhân hay sự đơn độc mà vẫn có thể có sự phối hợp của  
nhiều cá nhân dù rằng mỗi cá nhân vẫn giữ sự độc lập của chính mình trong sự phối hợp.  
9
Ở đây, bất kì một cá nhân nào hay tổ chức nào – nhóm sáng tạo ra ý tưởng, khám phá ra ý  
tưởng cũng bắt đầu từ việc phải độc lập suy nghĩ và tác chiến. Nhờ vào tư duy độc lập thì  
sáng tạo lấy nó làm tiền đề để nảy sinh giải pháp mới.  
- Tính có lợi: Sáng tạo phải tạo ra cái mới nhưng cái mới ấy phải đảm bảo tính  
hiện thực, phục vụ cho lợi ích của con người và xã hội.  
Từ các quan điểm trên về sáng tạo, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu về sáng tạo được  
sử dụng trong tài liệu này:  
“Sáng tạo có thể được tiếp cận dưới góc độ quá trình hoạt động của con người,  
hoặc được tiếp cận dưới góc độ nhân cách. Sáng tạo được hiểu là tìm ra cái mới, cách  
giải quyết mới, có giá trị. Cái mới, có giá trị được thể hiện trong ý tưởng, trong cách  
thức giải quyết vấn đề, trong sản phẩm ấy có thể diễn ra ở cấp độ cá nhân hoặc/và ở  
cấp độ xã hội, dựa trên sự độc lập trong tư duy và hoạt động của con người”.  
Sáng tạo gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới (đổi mới), sáng chế, các ý tưởng  
mới, các phương án lựa chọn mới. Sự sáng tạo thuộc về năng lực ra quyết định, thuộc về  
sự kết hợp độc đáo hoặc liên tưởng, phát ra các ý tưởng đạt được kết quả mới và ích lợi.  
Mọi người có thể dùng tính sáng tạo của mình để đặt vấn đề một cách bao quát, phát triển  
các phương án lựa chọn, làm phong phú các khả năng và tưởng tượng các hậu quả có thể  
nảy sinh. Bạn làm được gì mới, khác và có ích lợi, đấy là sáng tạo. Sự sáng tạo nảy sinh ở  
mọi tầng lớp và mọi giai đoạn trong cuộc sống của chúng ta.  
Tư duy sáng tạo là kiểu tư duy đặc biệt, là một quá trình độc đáo, không chỉ là thao  
tác với những thông tin đã biết theo con đường logic hay lấy ra từ trí nhớ. “Nghĩ sáng tạo  
là nhìn một vấn đề, một câu hỏi... theo những cách khác với thông thường. Tức là nhìn  
mọi thứ từ các góc độ, tầm nhìn khác nhau, "nhìn" theo những cách không bị hạn chế bởi  
thói quen, bởi phong tục, bởi tiêu chuẩn...”  
Tư duy sáng tạo được hiểu là: Khả năng giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra cái  
mới, bằng cách thức mới nhưng đạt được kết quả một cách hiệu quả, hoặc Khả năng giải  
quyết vấn đề hiệu quả dựa trên sự phân tích lựa chọn các giải pháp tốt nhất có thể có.  
Cách giải quyết này thường là mới, mang tính sáng tạo và hướng đến xu thế tối ưu.  
Theo quan điểm của chúng tôi, tư duy sáng tạo là “cách nhìn nhận vấn đề, sự  
việc, con người... theo những cách thức khác với cách nhìn nhận thông thường - đó là  
10  
những cách nhìn mới mẻ - bằng việc sử dụng kiến thức của mình và thay đổi bối cảnh  
mà chúng ta nghĩ về những kiến thức đó. Nói cách khác, đó là việc “nhìn những điều  
mọi người đều nhìn thấy và nghĩ ra một điều gì đó khác biệt”. Tư duy sáng tạo phát  
triển từ tư duy phản biện – một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá  
một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và  
khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.  
Cơ sở của tư duy sáng tạo là phép phân kỳ trong hoạt động tư duy, đó là hoạt động  
suy nghĩ để cá nhân tìm ra nhiều phương pháp, nhiều cách giải quyết khác nhau để đạt  
được kết quả mà vấn đề đặt ra.  
Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm tìm ra  
các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để tăng cường khả  
năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về một vấn đề  
hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của loại hình tư duy này là giúp cá nhân hay tập thể thực  
hành nó tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề. Các  
vấn đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ thuật mà nó có  
thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật... hoặc trong các phát  
minh, sáng chế.  
Như vậy, học kỹ năng tư duy sáng tạo là  
học các cách thức, các kỹ thuật để có  
những cách tiếp cận, nhìn nhận và giải  
quyết vấn đề đề một cách linh hoạt, mới mẻ  
và hữu ích. Đó là kiểu tư duy ra khỏi “chiếc  
hộp”, ra khỏi “lối mòn”.  
(Nguồn: Internet)  
1.2.2. Các cấp độ sáng tạo  
Sáng tạo có thể được biểu đạt ở các cấp độ khác nhau. Có thể chia sáng tạo thành 5  
cấp độ sau:  
- Sáng tạo biểu đạt: là sự thể hiện ra bên ngoài những mối quan hệ, liên tưởng  
trong cuộc sống thường ngày, trong những sản phẩm lao động. Sáng tạo ở cấp độ này thể  
11  
hiện trong giao tiếp như sự biểu đạt ý tưởng một cách hóm hỉnh, trong cải biến các quan  
hệ lao động, trong cuộc sống, các chi tiết mới trong sản phẩm...  
- Sáng chế: là việc tạo ra những vật dụng, dụng cụ mới chưa từng có trong tự  
nhiên và trong cuộc sống của con người dựa trên những kiến thức phát hiện được bằng  
con đường khoa học cũng như những kinh nghiệm thu nhận được trong cuộc sống.  
- Phát minh: là sự phát hiện ra các quy luật của sự vật hiện tượng có sẵn trong  
tự nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật này đang tác động, đang tồn tại nhưng con  
người, loài người chưa phát hiện ra trước đó.  
- Sáng tạo ở mức cải biến: là những thay đổi mang lại do tạo ra được những  
chuyển hóa, những đột phá trong khoa học, công nghệ, những thay đổi trong xã hội nhờ  
những phát minh, sáng chế trong nhiều lĩnh vực hay những thay đổi trong cách nhìn nhận,  
cách xử lý tình huống một cách tổng thể có sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhiều  
ngành, nhiều lĩnh vực công nghệ nhằm cải biến thực tiễn.  
- Sáng tạo có thể tạo ra các lĩnh vực, ngành nghề mới.  
1.2.3. Ba thành phần của sáng tạo  
Nhà khoa học Teresa Amabile cho rằng sáng tạo bao gồm 3 thành phần: (1) Sự  
thông thạo kiến thức; (2) Những kỹ năng tư duy sáng tạo; (3) Động cơ.  
Mô hình 3 nhân tố hình thành sự sáng tạo cá nhân  
(Nguồn: Quản lý tính sáng tạo và đổi mới – Tạp chí Business Haverd Review)  
- Sự thông thạo kiến thức: Rõ ràng để tạo ra một phần mềm mới, các nhà lập  
trình phải am hiểu rất rõ về các kỹ thuật lập trình cũng như cách thức và quy trình để tạo  
ra phần mềm. Những nhà soạn nhạc thiên tài phải có kiến thức cực kì uyên bác về âm  
12  
nhạc. Vì thế nếu chúng ta có càng nhiều kiến thức về một lĩnh vực nào đó thì khả năng  
sáng tạo của chúng ta ở lĩnh vực đó càng cao. Vì thế có một định nghĩa khác cho sự sáng  
tạo là “khả năng sắp xếp những thứ đã có sẵn theo một trật tự mới”. Những nguyên liệu  
cho sự sáng tạo là các kiến thức có sẵn và những kiến thức này là nền tảng cho lối tư duy  
của mỗi người. Kiến thức là nền tảng cho những ý tưởng mới. Tuy nhiên, kiến thức chỉ là  
điều kiện cần để sáng tạo chứ chưa phải là tất cả. Hầu hết chúng ta đã từng gặp những  
người có kiến thức sâu sắc nhưng vẫn chưa thể đưa ra một ý tưởng sáng tạo nào. Những  
kiến thức đó chỉ ở trong đầu họ bởi họ chưa bao giờ nghĩ về chúng theo một hướng mới.  
Như vậy, một điều quan trọng nữa để trở nên sáng tạo nằm ở những gì chúng ta làm với  
kiến thức của mình, nói cách khác, đó chính là những kỹ năng tư duy sáng tạo.  
- Những kỹ năng tư duy sáng tạo: được xem là cách con người tiếp cận vấn đề  
một cách linh hoạt và giàu trí tưởng tượng như thế nào. Những giải pháp mà họ suy nghĩ  
có khả năng vượt ra những tư duy bình thường. Thuật ngữ này được mô tả là khả năng  
“suy nghĩ ra ngoài chiếc hộp (thinking out of box)”, tức là những suy nghĩ vượt ra những  
lề thói thông thường mà chúng ta gặp hàng ngày.  
- Động được hiểu là các yếu tố thôi thúc cá nhân tìm ra những giải pháp sáng  
tạo. Nó quy định phương hướng, mục đích, cường độ của hoạt động, thể hiện ở tinh thần  
say mê, tính tích cực hoạt động được tạo ra chủ yếu nhờ hứng thú, sự thỏa mãn nhu cầu  
chiếm lĩnh ý tưởng mới, phức tạp và thách thức bằng chính hoạt động sáng tạo.  
Người Việt có câu “cái khó ló cái khôn”. Câu này mang ý nghĩa là khi chúng ta rơi  
vào hoàn cảnh khó khăn thì chúng ta mới có động cơ tìm ra những ý tưởng để giải quyết  
những vấn đề của mình. Động cơ có thể mang tính hướng nội hay hướng ngoại. Các yếu  
tố bên ngoài cá nhân như sự thúc đẩy của môi trường, các phần thưởng hay các hình phạt  
chế tài là các yếu tố có thể thúc đẩy cá nhân phát huy khả năng sáng tạo của mình. Tuy  
nhiên, những nghiên cứu cũng chỉ ra những động cơ bên trong như niềm đam mê nội tại  
về lĩnh vực nào đó thì có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự sáng tạo. Điều này được chứng  
minh bởi Daniel Pink trong cuốn sách Động lực 3.0. Con người tiến hóa từ Động lực 1.0  
là động cơ sinh tồn lên động lực 2.0 là "cây gậy và củ cà rốt" - tức là động lực bên ngoài,  
và nay là động lực 3.0 – động lực nội tại bên trong mỗi người. Ở thế kỷ 21, công việc  
13  
ngày càng đòi hỏi sáng tạo nên các công ty phải tạo cho người lao động tinh thần đam mê  
công việc mình đang làm.  
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy có thể học được sự sáng tạo từ việc  
phát triển ba yếu tố: kiến thức, các kỹ năng tư duy sáng tạo và động lực.  
Thứ nhất, chúng ta hiểu được để sáng tạo trong lĩnh vực gì thì trước hết phải am  
hiểu những kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực đó. Cuối cùng, cái mà sáng tạo hướng  
đến là có thể vận dụng kiến thức nhân loại để phục vụ cuộc sống một cách nhanh nhất và  
hiệu quả nhất. Hiểu được nền tảng khoa học hiện tại thì chúng ta mới có thể đưa ra sáng  
kiến được.  
Thứ 2, chúng ta cần rèn luyện các kỹ năng tư duy sáng tạo để có cách tiếp cận vấn  
đề một cách linh hoạt, mềm dẻo và giàu trí tưởng tượng.  
Thứ 3, chúng ta cần tự tạo động cơ, nhất là động cơ bên trong, và được tạo động cơ  
để thúc đẩy sự sáng tạo trong môi trường học tập cũng như môi trường làm việc.  
2. CƠ SỞ SINH LÝ THẦN KINH CỦA TƯ DUY SÁNG TẠO  
2.1. Cấu tạo, chức năng của bộ não  
2.1.1. Tế bào thần kinh  
Lao động sáng tạo có nguồn gốc từ hệ thần kinh. Thần kinh trung ương bao gồm  
bộ não nằm trong sọ và tủy sống nằm trong ống tủy.  
Bộ não gồm có 6 phần nằm trong hộp sọ: hai bán cầu đại não, não trung gian, não  
giữa, cầu não, hành tủy và tiểu não.  
Nguồn: tulieu.violet.vn  
14  
Não người trung bình có khoảng 15 tỉ tế bào thần kinh, gọi là nơ-rôn có hình dạng  
và kích thước rất khác nhau, đường kính 1-50 micromet.  
2.1.2. Trụ não và tủy sống  
Trụ não và tủy sống là phần dưới của đại não có thể được coi như hệ thần kinh  
trung ương bậc thấp. Chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc điều hòa hoạt động  
của tất cả các cơ quan trong cơ thể, trong sự thống nhất hoạt động với hệ thần kinh trung  
ương bậc cao là đại não nhằm làm cho con người thích ứng với môi trường luôn luôn biến  
đổi để tồn tại và phát triển.  
2.1.3. Hai bán cầu đại não  
Ngay sau khi đứa trẻ sinh ra, sự chuyển động không xác định của chúng sẽ phát  
triển dần thành thuận một tay, sáng hơn một mắt và thuận hơn một chân. Bởi vì, hầu hết  
mọi người đều thuận một bên. Nửa bán cầu đại não sẽ có vai trò nổi trội hơn ở bên phía  
đối diện. Mặc dù mỗi bên não có một số chức năng trùng lặp với phần não bên kia. Có  
nhiều chứng cứ và nhiều tranh luận rằng bán cầu đại não phải chịu trách nhiệm về tư duy  
sáng tạo. Sự suy đoán hơn là chứng cớ khoa học đã dẫn đến quan niệm phân đôi tất cả các  
chức năng và đưa chúng vào một trong hai bán cầu đại não, như trong bảng sau:  
Các chức năng của hai bán cầu não  
(theo Springer và Deutsch, 1993)  
Bán cầu não trái  
Ngôn ngữ  
Số  
Bán cầu não phải  
Phi ngôn ngữ, không gian  
Tương tự  
Logic, phân tích  
Duy lý  
Tổng thể, tổng hợp  
Trực giác  
Vị Tây phương  
Trí tuệ  
Vị Đông phương  
Cảm xúc  
Hội tụ  
Phân kỳ  
Quy nạp  
Diễn dịch  
Chiều dọc  
Cụ thể  
Chiều ngang  
Trừu tượng  
Hiện thực  
Tưởng tượng  
Tự do  
Ngụ ý bên trong  
Chủ quan  
Định hướng  
Biểu đạt ra bên ngoài  
Khách quan  
Theo thứ tự  
Đồng thời  
15  
Mặc dù có một số chứng cứ cho sự phân chia này nhưng đây cũng chỉ là kết  
quả của sự suy đoán hơn là những nghiên cứu công phu. Những người sáng tạo  
thường xuyên chuyển trọng tâm từ kiểu xử lý logic, đơn chiều của bán cầu não trái  
sang xử lý tổng thể của bán cầu não phải, ở đó tư duy trực giác đóng vai trò lớn. Ở  
mức giải phẩu, bán cầu não phải phù hợp hơn với sáng tạo khi có sự liên kết nhiều  
phần vỏ não với việc xử lý thông tin phức tạp và tích hợp. Tuy nhiên, chúng ta cần  
phải thận trọng với việc đơn giản hóa chúng. Não bộ luôn làm việc một cách thống  
nhất, vì vậy, việc cho rằng ở người bình thường, bán cầu não phải có thể tách rời khỏi  
bán cầu não trái theo cách nào đó là không chính xác và sai lầm (Restak, 1991)  
(Nguồn: Giáo trình Tâm lý học sáng tạo, Phạm Thành Nghị, trang 150).  
2.2. Các quy luật hoạt động của bộ não  
Sau đây là một số quy luật hoạt động của não bộ mà bạn cần lưu ý:  
- Quy luật 1: Thể dục tốt – Não khỏe  
Hãy cải thiện suy nghĩ bằng di chuyển. Kinh nghiệm của nhiều người cho thấy:  
“Hầu hết những ý tưởng hay đều xuất phát khi đi dạo”. Từ trước tới này, chúng ta thường  
mặc định những người “mọt sách” suốt ngày học mới có tư duy, trí tuệ. Nhưng không biết  
rằng trí tuệ, hiểu biết ta có được cũng qua những trải nghiệm thực tế. Chính những trải  
nghiệm mới khắc sâu vào trí não của ta. Ở đây, xét về khía cạnh vận động sẽ cấp oxy cho  
não, do đó não làm việc tốt hơn. Bằng chứng là chúng ta hay có những ý tưởng hay khi ta  
thong dong đi bộ, hay đang làm một việc gì đó liên quan tới cơ bắp.  
- Quy luật 2: Chú ý có giới hạn  
Bộ não của chúng ta tập trung trong một khoảng thời gian nhất định, vì thế, trong  
quá trình tư duy chúng ta hãy thường xuyên thay đổi cách thức hay những hoạt động của  
mình để bộ não linh hoạt hơn.  
- Quy luật 3: Tiếp nhận thông tin vô thức  
Bộ não tiếp nhận thông tin không chỉ bằng ý thức mà cả con đường vô thức. Đôi  
lúc bạn nghĩ “mình đã gặp chuyện này ở đâu nhưng không nhớ”. Khi bạn tiếp nhận một  
thông tin nào đó thì nó sẽ được “lưu vết” trong não bộ, giống như là cất giữ một cuốn  
sách, vì thế hãy biết cách sắp xếp thông tin và biết càng nhiều càng tốt.  
- Quy luật 4: Liên kết thông tin  
16  
Bộ não tiếp nhận thông tin bằng các liên kết các thông tin với nhau, vì thế hãy cải  
thiện suy nghĩ bằng cách mã hóa. Nhiều lời khuyên: “học phải hiểu thì mới nhớ, chỉ cần  
hiểu chứ không cần nhớ lâu”.  
- Quy luật 5: Phối hợp giác quan  
Bộ não kích thích khi phối hợp các giác quan. Phải đặt mình trong một môi trường  
thoải mái thì bộ não mới phát huy tiềm năng của mình được.  
2.3. Một số thông tin về bộ não  
Bộ não là tài sản quí giá nhất mà con người có. Cách sử dụng tài sản này tạo nên  
thành công hay thất bại trong công việc cũng như cuộc sống. Sau đây là một số thông tin  
thú vị về bộ não:  
- Cấu tạo của bộ não con người vô cùng phức tạp. Điều làm cho con người khác  
với đa số động vật khác là kích thước của bán cầu não. Đó là nơi chứa chất xám cần thiết  
cho sự sống cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ, biết đọc và biết viết của con người.  
Não bộ thông qua các giác quan, giúp chúng ta nhận thức được môi trường xung quanh,  
do đó có khả năng điều chỉnh và thích ứng với từng môi trường, hoàn cảnh khác nhau.  
- Não có một năng lực làm việc tuyệt vời, chỉ cần một giấc ngủ ngắn thôi cũng  
đủ để cho não nạp lại năng lượng cần thiết và duy trì hoạt động trở lại với hiệu suất bình  
thường. Não duy trì sự kiểm soát với một số bộ phận cơ thể bằng những mối giao tiếp qua  
trung gian tuỷ sống và các dây thần kinh. Các dây thần kinh giác quan chuyển tải thông  
tin đến não, não sàng lọc những thông tin này, sau đó gửi những tín hiệu xuống cho cơ  
bắp, xương và khớp thông qua các dây thần kinh vận động. Kết quả là những bộ phận của  
cơ thể sẽ cử động và hành động theo sự chỉ huy của não bộ.  
- Não của một người lớn nặng trung bình khoảng 1,4 kg. Não của trẻ sơ sinh  
trung bình nặng 390g, của trẻ 9 tháng tuổi là 660g, 3 tuổi: 1000g, 7 tuổi: trung bình là  
1280g. Ở từng con người cụ thể thì vấn đề lại vô cùng phức tạp. Não của nhà văn Nga  
Turgenev nặng 2012g, của nhà thơ Anh Byron nặng 1807g, của nhà triết học Đức Kant  
1650g, của nhà thơ Đante 1420g, của nhà toán học Gauss 1490g, của nhà sử học Đức  
Tawringe 1207g, của Einstein nặng 1,2 kg, của nhà văn Pháp Anatone France 1017g.  
- Theo các nghiên cứu khoa học thì não người có nhiều gam màu tổng hợp, thiên  
về gam màu xám, vì vậy mà nó được gọi là chất xám. Chất xám này tồn tại ở rất nhiều bộ  
17  
phận trong não, nó chứa rất nhiều loại tế bào khác nhau bởi vậy não còn có chứa các chất  
trắng gồm các dây thần kinh phối lắp với các chất xám.  
- Não của người là não tiến hóa mức cao nhất. Có khả năng suy luận và tư duy  
trừu tượng. Con người có khả năng nhìn bằng tiềm thức. Dẫn đến hiện tượng ảo giác và  
có thể nhìn thấy điều không có trên thực tế.  
- Não người có nhiều nếp nhăn. Theo quy luật tiến hóa và để phù hợp với tỷ  
trọng của cơ thể, não người tự nó phát triển và gói gọn trong hộp sọ với nhiều nếp gấp  
khác nhau, có những lớp giống nhau, chỗ lồi gọi là gyri và chỗ lõm gọi là sulci. Kích  
thước của những vùng này cũng không đồng nhất, độ lớn nhỏ tùy thuộc độ tuổi và từng cá  
thể vì vậy ngay từ khi ở trong bào thai, não đã được hình thành và phát triển, đến tuần thứ  
40 sẽ có những nếp nhăn rõ ràng. Khi người ta học tập, nghiên cứu thì nếp nhăn này quả  
thực có thay đổi nhưng không hề thêm số lượng các sulci lẫn gyri. Hiện tượng này được  
gọi là quá trình giãn nở của não.  
- Sự phát triển mạnh mẽ nhất của bộ não xảy ra ở tuổi từ 2-11. Thức khuya hay  
uống rượu hoặc hút thuốc lá nhiều sẽ làm chết các nơ ron thần kinh làm não giảm bộ nhớ.  
- Con người càng có học vấn thì khả năng mắc bệnh về não càng ít. Hoạt tính trí  
óc kích thích sự sản xuất mô bổ sung bù lại mô bị bệnh.  
- Thực hiện những hoạt động không quen thuộc là một cách tốt nhất để phát triển  
bộ não. Sự giao thiệp với những người vượt bạn về trí tuệ cũng là cách tác động mạnh đến  
sự phát triển.  
- Từ đầu thế kỷ 20, nhiều nhà khoa học trong đó có Giáo Sư Williams James đã  
nghiên cứu và phát hiện thấy con người mới sử dụng khoảng 10% năng lực của bộ não.  
Tuy nhiên gần đây, nhờ khoa học phát triển và kỹ thuật quét não, kỹ thuật neuron-  
imaging, giới nghiên cứu đã có thể quan sát kỹ hơn cấu trúc của não cũng như các hoạt  
động của nó và phát hiện thấy sự sai lầm của giả thuyết nói trên. Theo đó, không phải lúc  
nào con người cũng sử dụng hết công suất của não, song nhiều vùng của não thường  
xuyên kết hợp với nhau, tuyệt nhiên không hề có vùng não nào là không hoạt động, ngay  
cả khi con người nghỉ ngơi. Ví dụ khi ta nhai một miếng bánh thì hầu hết các bộ phận của  
não đều hoạt động, đảm nhận các chức năng của nó như quan sát, cảm nhận đánh giá,  
kiểm chứng… hoặc khi ngủ não bộ cũng không hề nghỉ.  
18  
3. CÁC RÀO CẢN CỦA TƯ DUY SÁNG TẠO  
Những rào cản đối với tư duy sáng tạo là những yếu tố gây trở ngại cho hoạt động  
tư duy tìm kiếm những giải pháp, những hướng đi mới để giải quyết vấn đề đặt ra. Đó là  
sự thiếu hụt tính mạo hiểm và tính cởi mở trong tư duy cũng như không có câu hỏi hay  
chiến lược kích thích, gợi ý để thoát khỏi thông tin cũ, ý tưởng cũ đang thống trị để tạo ra  
con đường mới dẫn đến sản phẩm mới. Sau đây là những rào cản phổ biến:  
3.1. Rào cản về văn hóa  
Văn hóa là một khái niệm rất rộng, trong đó những giá trị vật chất và tinh thần  
được sử dụng làm nền tảng định hướng cho lối sống, đạo lý, tâm hồn và hành động của  
mỗi dân tộc và các thành viên để vươn tới chân – thiện – mỹ trong mối quan hệ giữa  
người với người, giữa con người với tự nhiên và môi trường xã hội.  
Văn hóa còn được hiểu là những qui luật chủ quan được một cộng đồng thừa nhận  
và tôn trọng. Mỗi con người sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh khác nhau nên thấm  
đẫm một không gian văn hóa khác nhau. Nếu cộng đồng là gia tộc thì có văn hóa gia tộc,  
nếu cộng đồng là doanh nghiệp thì có văn hóa doanh nghiệp, nếu cộng đồng là vùng miền  
thì có văn hóa vùng miền...  
Một số nền văn hóa chỉ chấp nhận một câu trả lời đúng. Các thành viên không  
được khuyến khích tưởng tượng hay mơ ước về các cơ hội. Giải quyết vấn đề được tiến  
hành rất chặt chẽ theo từng bước, theo trật tự và theo truyền thống. Đối với nhiều nền văn  
hóa khác, sự mềm dẻo, tự do, bầu không khí sáng tạo và cởi mở có mặt trong tổ chức,  
cộng đồng. Ở giai đoạn tuổi thơ, trẻ em được khuyến khích tư duy sáng tạo. Nếu trẻ được  
khuyến khích mạo hiểm, hài hước với những ý tưởng mới và tưởng tượng các cơ hội bất  
thường, thói quen này sẽ đi cùng với họ trong phần còn lại của cuộc đời [14]. Chẳng hạn,  
sự khác biệt về văn hóa các nước phương Tây và nhiều nước phương Đông. Các nước  
phương Tây thường đề cao sự tư duy độc lập trong cách suy nghĩ và đề cao sự khác biệt  
mới lạ cũng như tư duy phản biện. Ngược lại văn hóa phương Đông đề cao tư duy tập thể.  
Văn hóa doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới cách thức tư duy của người lao động.  
Rõ ràng nếu một công ty mà ban lãnh đạo cởi mở tư duy thì các thành viên trong công ty  
mới có điều kiện phát huy sự sáng tạo của mình trong môi trường làm việc.  
19  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 157 trang yennguyen 06/04/2022 4000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kỹ năng tư duy sáng tạo - Trần Hữu Trần Huy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_ky_nang_tu_duy_sang_tao_tran_huu_tran_huy.pdf