Việt Nam không phải quốc gia thao túng tiền tệ
CHÍNH SÁCH
VIỆT NAM
KHÔNG PHẢI QUỐC GIA THAO TÚNG TIỀN TỆ
Nguyễn Trần Minh Trí*
* ThS. Viện Kinh tế & Chính trị thế giới - Viện Hàm lâm KHXH Việt Nam
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Vừa qua, dư luận khá quan ngại việc Việt Nam bị Hoa Kỳ cáo buộc là
quốc gia thao túng tiền tệ với những hệ lụy tiêu cực có thể phát sinh. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả làm rõ căn cứ mà Hoa Kỳ đưa ra cáo buộc,
các lập luận và luận chứng phản biện và đề xuất một số giải pháp thích
ứng để tháo gỡ cáo buộc đó.
Từ khóa: Thao túng tiền tệ; quốc
gia thao túng tiền tệ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 25/12/2020
: 05/01/2021
: 06/01/2021
Article Infomation:
Abstract:
Recently, it has got public concerns that Vietnam has been labeled by the
US Government as a currency manipulator, which may lead to potential
negative consequences. Under the scope of this article, the author provides
clarifications of the ground on which the US Government has provided
its manipulation designation to Vietnam, also the critical arguments and
arguments and proposes some adaptive solutions to disassemble the US’s
designation.
K e y w o r d s : C u r r e n c y
manipulation;
currency
manipulatort.
Article History:
Received
Edited
: 25 Dec. 2020
: 05 Jan. 2021
: 06 Jan. 2021
Approved
1. Căn cứ để Mỹ cáo buộc quốc gia bị thao
túng tiền tệ
Hoa Kỳ phát hiện và công bố danh sách giám
sát những quốc gia tiềm tàng khả năng thao
túng tiền tệ; thực hiện phân tích nâng cao về
chính sách tỷ giá và kinh tế đối ngoại của các
đối tác thương mại lớn và cáo buộc thao túng
tiền tệ đối với các quốc gia nào thỏa mãn các
tiêu chí về thặng dự thương mại song phương
với Hoa Kỳ, thặng dư cán cân vãng lai và can
thiệp ngoại tệ. Các tiêu chí này được lượng hóa
cụ thể, gồm: (i) Thặng dư thương mại hàng hóa
song phương với Hoa Kỳ ít nhất 20 tỷ USD;
(ii) Thặng dư cán cân vãng lai tương đương
ít nhất 2% GDP; (iii) Can thiệp một chiều và
kéo dài trên thị trường ngoại tệ, thể hiện qua
việc mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6 tháng
trên giai đoạn 12 tháng với tổng lượng ngoại tệ
Thao
túng
tiền
tệ
(currency
manipulation) là vấn đề chính thức được luật
pháp Hoa Kỳ đưa thành Đạo luật Cạnh tranh và
thương mại quốc tế (Omnibus) năm 1988; theo
đó, Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Tài chính (BTC) của
nước này theo dõi và báo cáo hàng năm về tình
hình tỷ giá hối đoái giữa Hoa Kỳ và những đối
tác thương mại lớn của Hoa Kỳ; phát hiện và
thương lượng loại bỏ việc thao túng tiền tệ của
các quốc gia khác dẫn đến trao đổi thương mại
không công bằng đối với Hoa Kỳ. Đạo luật Xúc
tiến và tăng cường thương mại năm 2015 (The
Trade Facilitation and Trade Enforcement Act
of 2015) tiến thêm một bước là yêu cầu BTC
30
CHÍNH SÁCH
mua ròng tương đương ít nhất 2% GDP trong
giai đoạn 12 tháng.
Malaysia, Thụy Sĩ và Việt Nam. Báo cáo cũng
kết luận không có đối tác thương mại nào thao
túng tiền tệ.
Dưới thời của Tổng thống Trump, Hoa Kỳ
ban hành một quy định mới, theo đó các quốc
gia có đồng tiền bị định giá thấp sẽ được coi là
một khoản trợ cấp có lợi cho các doanh nghiệp
nước đó. Chính thức kể từ ngày 06/4/2020, luật
mới của Hoa Kỳ cho phép các công ty Hoa Kỳ
được phép nộp đơn khiếu nại lên Chính phủ
Hoa Kỳ nhằm đạt được một biện pháp khắc
chế thương mại không công bằng như là một
kiểu thuế đối kháng với sự trợ cấp.
Hệ lụy từ việc Việt Nam bị dán nhãn thao
túng tiền tệ thường là tiêu cực. Bởi lẽ, với
tuyên bố Việt Nam là quốc gia thao túng tiền
tệ, chính phủ Hoa Kỳ đã có bước đệm để áp
các lệnh trừng phạt thương mại đối với Việt
Nam như đánh thuế lên các mặt hàng xuất
khẩu. Từ đó, lợi nhuận xuất khẩu, quy mô xuất
khẩu, cũng như sự định vị rời đi hay tiếp tục ở
lại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài có
thể bị tác động, tùy thuộc mức thuế trừng phạt,
cũng như thời gian áp dụng mà Hoa Kỳ đặt ra
và gỡ bỏ cáo buộc.
Ngày 16/12/2020, Bộ Tài chính (BTC)
Hoa Kỳ đã ban hành Báo cáo về “Chính sách
kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác
thương mại lớn của Hoa Kỳ”; trong đó, BTC
Hoa Kỳ đã đưa vào Danh sách giám sát gồm
10 nền kinh tế: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đức, Ý, Singapore, Malaysia, Đài Loan
(Trung Quốc), Thái Lan và Ấn Độ. Đồng thời,
Việt Nam và Thuỵ Sỹ bị BTC Hoa Kỳ xác định
là thao túng tiền tệ.
Ví dụ, số liệu của Tổng cục Thống kê cho
biết, với nhóm 3 mặt hàng Việt Nam có thế
mạnh là dệt may, da giày, gỗ… 9 tháng đầu
năm, tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ
là 20 tỷ USD, nếu bị áp thuế 5 - 25%, ở kịch
bản tươi sáng nhất là giữ nguyên được lượng
hàng xuất khẩu, giả định giá không đổi, doanh
nghiệp tối thiểu lỗ ngay 1 - 5 tỷ USD1. Tuy
nhiên, giới doanh nghiệp cho rằng, thực tế sẽ
không chỉ dừng lại ở các con số nêu trên, do họ
có thể bị giảm sản xuất, mất thị trường, cũng
như hỗn loạn chuỗi cung ứng. Tác động của
chuỗi cung ứng không chỉ tác động đến doanh
nghiệp Việt Nam, mà ngay cả với các doanh
nghiệp Hoa Kỳ đang sản xuất hàng hóa tại thị
trường này. Để xây dựng một chuỗi cung ứng,
trung bình doanh nghiệp cần 2 - 3 năm.
Việc BTC Hoa Kỳ xếp hay không xếp
Việt Nam vào nhóm nước thao túng tiền tệ là
quyết định và tiêu chí đơn phương từ phía Hoa
Kỳ. Hành động này không phải lần đầu:
Tại Báo cáo của BTC Hoa Kỳ tháng
5/2019, lần đầu tiên Việt Nam trở thành một
trong 9 quốc gia nằm trong danh sách giám sát
do đáp ứng hai tiêu chí về thặng dư thương mại
song phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân
vãng lai. Báo cáo tháng 5 - 2019 cũng nêu một
quốc gia vào danh sách giám sát sẽ tiếp tục
được theo dõi trong hai kỳ báo cáo tiếp theo.
2. Việt Nam không thao túng tiền tệ
Xét cả về tiêu chí của Hoa Kỳ nêu trên,
cũng như thực tế kinh doanh và điều hành kinh
tế vĩ mô của Việt Nam nhiều năm qua, có thể
khẳng định: Việt Nam không thao túng tiền tệ,
bởi các lẽ sau:
Do đó, tại Báo cáo 14/1/2020, BTC Hoa
Kỳ tiếp tục đưa Việt Nam vào danh sách giám
sát (dù chỉ đáp ứng một tiêu chí về thặng dư
thương mại hàng hóa song phương với Hoa
Kỳ 47 tỷ USD, còn thặng dư cán cân vãng lai
chỉ tương đương 1,7% GDP; can thiệp mua
ròng trên thị trường ngoại tệ tương đương
Bản, Hàn Quốc, Đức, Ý, Ireland, Singapore,
Thứ nhất, Việt Nam không chủ trương phá
giá tiền tệ, trong cả các tuyên bố chính thức,
cũng như trong chỉ đạo điều hành thực tế.
Những năm qua, Việt Nam thực hiện
chính sách tỷ giá trung tâm trong khuôn khổ
31
CHÍNH SÁCH
chính sách tiền tệ chung với mục tiêu nhất quán
là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
chứ không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương
mại quốc tế không công bằng. Tỷ giá trung tâm
VND/USD cuối năm thường không vượt quá
1,5 - 2 % so với đầu năm, bất chấp những biến
động mạnh mẽ tỷ giá nhiều đồng tiền khu vực
và quốc tế, thậm chí ngay cả đồng USD.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây,
lạm phát bình quân của Việt Nam là 4% trong
khi lạm phát của Hoa Kỳ chưa đến 2%, do đó,
việc tiền đồng mất giá 1 - 1,5% là bình thường;
có nhiều năm lạm phát Việt Nam cao 5 - 6%,
nhưng VND chỉ mất giá 1 - 2%. Nói cách khác,
việc NHNN mua vào ngoại tệ là thực hiện
chức năng chuyển hóa các đồng ngoại tệ để
giúp người dân tại lãnh thổ Việt Nam có thể
dùng tiền đồng, tức việc mua vào này là bắt
buộc. Hơn nữa, Việt Nam không chỉ mua vào
ngoại tệ một chiều, mà trên thực tế, NHNN chỉ
mua vào khi thị trường dư ngoại tệ; đồng thời,
Ngân hàng Nhà nước cũng luôn chủ động bán
ra để ổn định tỷ giá VND/USD và duy trì trạng
thái kinh tế vĩ mô mục tiêu.
Việt Nam không có động lực phá giá tiền
tệ nhằm lợi thế xuất khẩu, bởi xuất khẩu và
xuất siêu chủ yếu do các công ty FDI ở Việt
Nam là động lực và hưởng lợi chính, trong khi
cộng đồng DN trong nước thường nhập siêu.
Hơn nữa, Việt Nam cũng không có lợi khi phá
giá đồng tiền do phụ thuộc nhiều vào nhập
khẩu nguyên liệu đầu vào và nợ chính phủ cao.
Ngoài ra, thặng dư cán cân vãng lai ở
Việt Nam (bao gồm cán cân thương mại và các
khoản chuyển tiền) thường chủ yếu do nhận
tiền kiều hối từ nước ngoài về. Đây là những
khoản tiền của người Việt Nam ở nước ngoài
chuyển về để trợ cấp cho người thân trong
nước. Kiều hối là yếu tố khách quan, không
phải vì tỷ giá cao hay thấp. Hơn nữa, đã nhiều
năm nay, Việt Nam hạ mức gửi tiền USD của
cả cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp bằng 0%,
nên tỷ giá không phải là yếu tố làm cán cân
vãng lai thặng dư vượt quá tiêu chí của Hoa
Kỳ quy định là 2% GDP. Nói cách khác, thặng
dư cán cân vãng lai của Việt Nam phần lớn do
nhận tiền kiều hối từ nước ngoài về. Nếu loại
trừ kiều hối chuyển về hàng năm, cán cân vãng
lai của Việt Nam còn thâm hụt hoặc thặng dư
không lớn.
Thứ hai, Việt Nam không can thiệp một
chiều vào thị trường ngoại hối.
Cần khẳng định, trong thời gian qua, hoạt
động mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) về mặt bản chất là quá trình chuyển
đổi ngoại tệ sang tiền VND từ các nhà đầu tư,
xuất khẩu và người nhận kiều hối, để bảo đảm
người có ngoại tệ không dùng ngoại tệ làm
phương tiện thanh toán trong nước. Hoạt động
này theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam,
cũng phù hợp thông lệ như nhiều nước khác.
Việc NHNN mua ngoại tệ còn nhằm đảm
bảo hoạt động thông suốt của thị trường ngoại
tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời
củng cố dự trữ ngoại hối nhà nước vốn ở mức
thấp (hiện chỉ đáp ứng khoảng 3,5 tháng nhập
khẩu) so với các nước trong khu vực, cũng
như so với các khuyến cáo và thông lệ chung
(cần đáp ứng khoảng 5 tháng nhập khẩu) trên
thế giới về mức dự trữ ngoại hối so với chi
phí cho số tuần nhập khẩu, để tăng cường an
ninh tài chính tiền tệ quốc gia. Từ góc độ kiểm
soát khủng hoảng, việc tăng tích trữ ngoại hối
thông qua hoạt động thu mua đô-la Mỹ - đồng
tiền thống trị trong dự trữ và thanh toán quốc
tế - của Việt Nam là một động thái phòng ngừa
khủng hoảng điển hình trong điều hành chính
sách tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào.
Thứ ba, thặng dư thương mại song
phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng
lai là kết quả của hàng loạt các yếu tố liên
quan tới các đặc thù của nền kinh tế Việt Nam.
Xuất siêu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
chỉ là do tương quan cơ cấu kinh tế đặc thù
giữa hai nước và Việt Nam đã khai thác thành
công khoảng trống trong nhu cầu tiêu dùng
của người dân Hoa Kỳ để đẩy mạnh xuất khẩu,
ngày càng gia tăng khả năng đáp ứng cho thị
trường tiêu thụ của Hoa Kỳ.
32
CHÍNH SÁCH
Dữ liệu của Bộ Tài chính Hoa Kỳ cho
thấy, thặng dư thương mại của Việt Nam với
Hoa Kỳ đã tăng mạnh trong 4 năm qua: từ 38,3
tỷ USD năm 2017, tăng lên 39,4 tỷ USD năm
2018; 55,7 tỷ USD năm 2019 và hướng đến đà
kỷ lục 65 tỷ USD trong năm 20202.
khẩu hàng hóa ra thị trường lớn nhất thế giới
này, tăng 7,6% so với năm 2017. Trong khi đó,
ở chiều ngược lại, có nhiều doanh nghiệp Việt
Nam nhập khẩu hàng hóa từ Hoa Kỳ hơn số
lượng doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường
này. Cụ thể, trong năm 2018, trên phạm vi cả
nước có đến 13,2 nghìn doanh nghiệp đã nhập
khẩu hàng hóa có xuất xứ từ Hoa Kỳ, tăng
6,3% so với một năm trước đó4.
Theo số liệu thống kê trong Cơ sở Thống
kê dữ liệu Thương mại của Cơ quan Thống kê
Liên hợp quốc (UNCOMTRADE), tổng trị giá
xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ trong năm
2017 đạt 1.784 tỷ USD ra thị trường thế giới;
trong đó Việt Nam là nước nhập khẩu hàng hóa
lớn thứ 31 của Hoa Kỳ, chiếm 0,5% trong tổng
trị giá xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ. Cũng
theo nguồn số liệu này, trong năm 2017, Hoa
Kỳ nhập khẩu hàng hóa trị giá lên đến 2.407
tỷ USD từ tất cả đối tác thương mại, trong đó
hàng hóa từ Việt Nam xếp vị trí thứ 12, chiếm
tỷ trọng 2% trong tổng trị giá nhập khẩu của
Hoa Kỳ3.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải
quan, tổng trị giá 10 nhóm mặt hàng lớn nhất
của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa
Kỳ trong năm 2018 đạt 40,58 tỷ USD, chiếm
85,4% trong tổng trị giá xuất khẩu sang Hoa
Kỳ. Hàng dệt may là nhóm mặt hàng có trị
giá xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ với trị giá trong năm 2018 đạt
13,7 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2017.
Các nhóm mặt hàng lớn tiếp theo: giày dép các
loại đạt 5,82 tỷ USD, tăng 13,9%; điện thoại
các loại và linh kiện đạt 5,41 tỷ USD, tăng
46,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,9 tỷ USD,
tăng 19,3%; máy móc thiết bị dụng cụ & phụ
tùng đạt 3,4 tỷ USD, tăng 40,3%... Tổng trị
giá nhập khẩu của 10 nhóm mặt hàng lớn nhất
có xuất xứ từ Hoa Kỳ năm 2018 đạt hơn 8,97
tỷ USD, chiếm 70,4% trong tổng trị giá nhập
khẩu hàng hóa có xuất xứ Hoa Kỳ5.
Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam
cho thấy, trong 25 năm qua, kim ngạch thương
mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng gấp
168 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 (xuất
khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 169,7 triệu
USD; kim ngạch nhập khẩu đạt 130,4 triệu
USD), tăng lên gần 76 tỷ USD năm2019.Trong
chín tháng năm 2020, dù chịu tác động tiêu cực
song phương Việt Nam - Hoa Kỳ vẫn đạt hơn
65 tỷ USD, tăng gần 18% so với cùng kỳ năm
ngoái; trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt
gần 55 tỷ USD; nhập khẩu từ Hoa Kỳ đạt hơn
10 tỷ USD. Hiện, Mỹ là thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam là đối tác
kinh tế lớn thứ 16 của Mỹ. Trong năm 2018, có
gần 7,2 nghìn doanh nghiệp Việt Nam đã xuất
Theo Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch
xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng 2020 của
Việt Nam ước tính đạt 489,1 tỷ USD, tăng 3,5%
so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu
đạt 254,6 tỷ USD, tăng 5,3% và nhập khẩu đạt
234,5 tỷ USD, tăng 1,5%; có 31 mặt hàng đạt
kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92%
tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 6 mặt
hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 64,3%).
4 . h t t p s : / / w w w . c u s t o m s . g o v . v n / L i s t s / T i n H o a t D o n g / V i e w D e t a i l s . a s p x -
?List=d46d405b%2D6620%2D4748%2Daee7%2D07b0233fdae6&ID=28392&Web=c00daeed%2D988b
%2D468d%2Db27c%2D717ca31ae3ff.
P h % C 3 % A 2 n % 2 0 t % C 3 % A D c h % 2 0 % C 4 % 9 1 % E 1 % B B % 8 B n h % 2 0 k % E 1 % B B % B 3 &
Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADchB.
33
CHÍNH SÁCH
Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
ước tính đạt 138 tỷ USD, tăng 9,2% so với
cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng công nghiệp
nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 90,2
tỷ USD, tăng 1,5%; nhóm hàng nông, lâm sản
đạt 18,7 tỷ USD, giảm 0,1%; nhóm hàng thủy
sản đạt 7,7 tỷ USD, giảm 0,9%. Hoa Kỳ là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong
11 tháng với kim ngạch đạt 69,9 tỷ USD, tăng
25,7% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là
Trung Quốc đạt 43,1 tỷ USD, tăng 16%. Thị
trường EU đạt 32,2 tỷ USD, giảm 2,4%. Thị
trường ASEAN đạt 20,9 tỷ USD, giảm 10,6%.
Hàn Quốc đạt 17,7 tỷ USD, giảm 2,7%. Nhật
Bản đạt 17,3 tỷ USD, giảm 6,5%. Trung Quốc
là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam
với kim ngạch ước tính đạt 73,9 tỷ USD, tăng
7,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt
42 tỷ USD, giảm 2,9%; thị trường ASEAN đạt
27,3 tỷ USD, giảm 6,9%; Nhật Bản đạt 18,6
tỷ USD, tăng 4,8%; thị trường EU đạt 13,2 tỷ
USD, tăng 4,3%; Hoa Kỳ đạt 12,6 tỷ USD,
giảm 3,6%. Cán cân thương mại hàng hóa ước
tính xuất siêu kỷ lục 20,1 tỷ USD (cùng kỳ
năm trước xuất siêu 10,8 tỷ USD); trong đó
khu vực trong nước nhập siêu 12,4 tỷ USD;
khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất
siêu 32,5 tỷ USD6.
công nghệ cao, thiết bị hàng không, viễn thông
và nông sản nguyên liệu…
Sự tăng vọt thặng dư thương mại với
Hoa Kỳ năm 2020 là do Việt Nam khống chế
thành công dịch Covid-19 hơn Hoa Kỳ. Ngoài
15 ngày đầu tháng 4 năm 2020 cả nước buộc
phải thực hiện giãn cách xã hội trên diện rộng,
còn lại các hoạt động kinh tế nội địa của Việt
Nam diễn ra gần như bình thường trong suốt
cả năm. Hơn nữa, Việt Nam vẫn duy trì hoạt
động xuất khẩu phục vụ các thị trường quốc tế,
trong đó có Hoa Kỳ. Đồng thời, khi các nước
cần nhập khẩu các thiết bị và hàng tiêu dùng
y tế để phục vụ công tác chống dịch, ứng phó
dịch, Việt Nam cũng nằm trong số ít nước có
thể đáp ứng được nhu cầu.
Ngoài ra, cần nhìn nhận khách quan rằng,
Việt Nam chỉ xuất siêu hàng hóa chủ yếu sang
Hoa Kỳ và EU, còn hầu hết nhập siêu hàng hóa
từ các thị trường khác như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc.
Việt Nam có nhân lực đông, trẻ, rẻ và dễ
đào tạo nên có lợi thế nhất định trong cạnh
tranh thị trường quốc tế nói chung, với Hoa
Kỳ nói riêng. Hơn nữa, cơ cấu kinh tế của hai
nước là bổ sung cho nhau, chứ không cạnh
tranh trực tiếp, nên các dòng hàng xuất - nhập
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là mang tính thị
trường cao. Điều này thể hiện rõ trong việc
Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm
có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam như dệt
may, đồ gỗ, da giày, thủy sản, đồ điện tử…
trong khi Việt Nam có nhu cầu lớn nhập khẩu
các sản phẩm máy móc, nguyên vật liệu, công
nghệ nguồn...
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
sang Hoa Kỳ đã thay đổi theo hướng tăng dần
nhóm hàng chế biến, chế tạo, từng bước nâng
cao giá trị gia tăng và tạo đà tăng trưởng bền
vững. Theo Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ,
kể từ khi Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ được ký kết vào năm 2000, cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã thay đổi
đáng kể. Nếu trước đây, Việt Nam xuất khẩu
chủ yếu vào Hoa Kỳ là các nhóm hàng như:
Dệt may, da giày… thì nay đã có thêm nhóm
hàng nông - thủy - hải sản tham gia vào danh
mục các nhóm hàng xuất khẩu quan trọng.
Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn có nhu cầu nhập
khẩu những mặt hàng mà Hoa Kỳ có nguồn
cung dồi dào như: Các loại máy móc, thiết bị
Đặc biệt, trong quá trình hợp tác, Chính
phủ và cộng đồng doanh nghiệp hai nước đã
nỗ lực phối hợp, tập trung giải quyết kịp thời
và hiệu quả vấn đề thương mại ưu tiên, bao
gồm việc mở cửa thị trường cho nông sản,
hàng công nghiệp, hàng hóa và dịch vụ công
nghệ thông tin của nhau, kiến tạo môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy ký kết
34
CHÍNH SÁCH
nhiều dự án, hợp đồng thương mại lớn. Hai
nước cũng đang triển khai có hiệu quả hoạt
động hợp tác thông qua cơ chế đối thoại của
Hiệp định khung về thương mại và đầu tư
(TIFA) trên tinh thần hợp tác, xây dựng, công
bằng, đáp ứng lợi ích chính đáng của mỗi
bên. Đây là lý do kim ngạch thương mại song
phương giữa hai nước liên tục tăng trưởng với
tốc độ ấn tượng trong suốt 25 năm qua.
nguyên liệu nhập khẩu từ Hoa Kỳ, gắn với
xây dựng chuỗi cung ứng khép kín tạo ra hiệu
quả chắc chắn cho cộng đồng doanh nghiệp
hai nước.
Thứ tư, tăng cường trao đổi, thảo luận tìm
kiếm các giải pháp xử lý thỏa đáng những vấn
đề còn tồn tại đáp ứng cao nhất lợi ích của cả
hai nước. Đặc biệt, tập trung tháo gỡ khó khăn
về dịch vụ công nghệ, quảng bá, quảng cáo,
thương mại dịch vụ; giới thiệu, mở rộng các cơ
hội để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận hàng
hóa Hoa Kỳ. Hai nước đang tích cực trao đổi, rà
soát vướng mắc và thúc đẩy giải quyết các quan
tâm của Hoa Kỳ, trong đó có triển khai hiệu quả
Kế hoạch hành động hướng tới cán cân thương
mại hài hòa, bền vững, giảm thâm hụt thương
mại. Với những hành động thiết thực tin tưởng
rằng quan hệ thương mại giữa hai nước sẽ tiếp
tục phát triển lên tầm cao mới...
Mặt khác, phần thặng dư thương mại giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ không ngừng tăng lên
trong các năm gần đây còn chịu tác động của
cuộc chiến tranh thương mại Hoa Kỳ-Trung,
khiến nhiều doanh nghiệp phải di dời, tìm
nguồn cung ứng mới tại các nước, trong đó
có Việt Nam và Việt Nam đã ít nhiều nắm bắt
được cơ hội này.
3. Giải pháp tháo gỡ cáo buộc thao túng
tiền tệ
Thay cho lời kết: Xu hướng xuất siêu
của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ sớm có điều
chỉnh hướng tới cân bằng trong thời gian tới,
do những diễn biến bất ổn của thương mại
toàn cầu và nguy cơ đình trệ gây ra bởi đại
dịch COVID-19 thời gian qua đã thúc đẩy
các công ty lớn; trong đó, nhiều tập đoàn của
Hoa Kỳ quan tâm hơn đến việc đầu tư vào
Việt Nam để phát triển mô hình chuỗi cung
ứng mới với các hệ thống cung ứng dự phòng
đặt tại nhiều địa điểm khác nhau để đảm bảo
sự bền vững và tính liên tục. Nhiều nhà đầu
tư Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam sẽ trở thành
địa điểm đầu tư lý tưởng, quan trọng và an
toàn của chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi
đó, đây là thời điểm Việt Nam đẩy mạnh cải
thiện môi trường kinh doanh, tăng cường đầu
tư, quảng bá về cơ hội, tiềm năng để thu hút
dòng vốn đầu tư từ Hoa Kỳ, đặc biệt là những
lĩnh vực có hàm lượng giá trị gia tăng cao, tập
trung vào các lĩnh vực như năng lượng, ứng
dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, y tế,
tài chính, hàng không, bán lẻ, giáo dục… Đó
sẽ là nền tảng vững chắc để hai nước thúc
đẩy trao đổi về những vấn đề chiến lược quan
Để giải quyết cáo buộc thao túng tiền tệ
mà Hoa Kỳ áp đặt, chúng tôi cho rằng, Việt
Nam cần thực hiện những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, chủ động cung cấp thông tin
giải trình, khách quan, chi tiết và minh bạch để
Hoa Kỳ hiểu đầy dủ và đúng đắn hơn về chính
sách và thực tế kinh tế của Việt Nam. Đồng
thời, cần chủ động phối hợp với các cơ quan
chức năng Hoa Kỳ sớm triển khai tiến trình
đàm phán trao đổi, thương lượng giải quyết
vấn đề giữa hai bên trong năm 2021.
Thứ hai, đẩy mạnh xúc tiến các biện pháp
khác như tăng nhập khẩu hàng hóa từ nước này
(như đã từng ký một số hợp đồng tỷ đô mua máy
bay của Hoa Kỳ hoặc thúc đẩy các dự án lớn
thuộc lĩnh vực năng lượng, điện khí LNG là mặt
hàng Việt Nam có nhu cầu lớn trong khi nguồn
cung từ Hoa Kỳ dồi dào, giá cả cạnh tranh); Việt
Nam cũng cần thể hiện sự tôn trọng chính kiến
của Hoa Kỳ và nhất quán thể hiện thành ý Việt
Nam luôn coi trọng mối quan hệ kinh tế-thương
mại ổn định và bền vững với Hoa Kỳ.
Thứ ba, khuyến khích các doanh nghiệp
chủ động nghiên cứu sản xuất và xuất khẩu
đi Hoa Kỳ bằng chính công nghệ và nguồn
trọng trong tương lai
35
Bạn đang xem tài liệu "Việt Nam không phải quốc gia thao túng tiền tệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- viet_nam_khong_phai_quoc_gia_thao_tung_tien_te.pdf