Hạnh phúc thật giản đơn (Phần 2)

Đám tang an lạc  
Từ bé đến nay tôi tham gia cả hàng trăm lễ tang. Từ những vị có chức rất  
cao đến một bác nông dân, công nhân. Từ một hòa thượng nổi tiếng đến một  
vị tì kheo trẻ tuổi. Thật tình, chưa có một đám tang nào đặc biệt và giản dị  
đến vậy. Giản dị đến khó tin. Nếu được phép, tôi sẽ đặt tên là đám tang an  
lạc.  
Đầu giờ sáng, tôi nhận tin Hòa thượng Thích Thông Lạc đã từ bỏ xác thân.  
Thế là tôi vớ bộ quần áo lam khoác lên người và vội vã lên đường. Lòng bồi  
hồi vì không được gặp Thầy trước lúc Thầy ra đi. Phước duyên mỏng quá!  
Chúng tôi đến nơi và rất bất ngờ bởi không khí bình an đến kì lạ. Trong ngôi  
nhà đơn sơ chỉ có quan tài Thầy và phía sau là ba vòng hoa. Không loa đài.  
Không kèn trống. Không có ban tổ chức. Không có các đoàn nườm nượp vào  
viếng như thường lệ. Lạ hơn nữa là không có tiếng khóc, không hương khói,  
không nhang đèn. Tất cả lặng im và thanh tịnh.  
Quan sát trước và sau ngôi nhà có quàn Trưởng lão Thích Thông Lạc, tôi  
thấy phần lớn là các Phật tử, chỉ có số ít là quý thầy, quý cô. Tất cả lặng lẽ  
vào lễ trước quan tài Thầy và ngắm dung nhan Thầy lần cuối. Thầy nằm đơn  
giản trong hòm gỗ, phía dưới là trà khô. Nhìn khuôn mặt Thầy rất thanh thản  
và an lạc như đang ngủ.  
Được biết Thầy mất hồi 12 giờ đêm ngày mồng một đầu năm và ngay sau đó  
không lâu, các học trò đã nhập quàn cho Thầy. Chị Phước, một Phật tử thân  
thiết của Thầy cho biết, trước khi mất, Trưởng lão Thích Thông Lạc mong  
muốn được đơn giản cuốn thân xác vào chiếu và chôn cất bình thường. Thầy  
cũng dặn là sáng mất thì chiều chôn. Thầy không muốn tổ chức lễ viếng  
đông đúc, không thông báo rộng rãi, không làm linh đình.  
Tôi thanh thản đi bộ ra phía trước ngôi nhà quàn Thầy thấy một hố mới xây,  
vữa còn ướt và hiểu rằng đây là nơi Thầy sẽ an nghỉ. Vô cùng giản dị. Tôi  
lang thang quanh khu vực và thấy khá nhiều thất, nơi những thiền sinh  
chuyên tu đang nhập thiền. Cả hai khu Chơn Như 1 và Chơn Như 2 đều vô  
cùng thanh tịnh.  
Điểm rất đặc biệt là tất cả các trò của Trưởng lão Hòa thượng Thích Thông  
Lạc - những thiền sinh chuyên tu - chưa hề biết Thầy đã thở hơi cuối cùng.  
Tận đến 14 giờ chiều quý vị mới biết và sau đó là ra viếng thầy.  
15 giờ 30 có một vị đọc tiểu sử của Trưởng lão Thích Thông Lạc. Lễ tang  
giản dị đến mức không có ban tổ chức, không có phát biểu của bất cứ ai,  
không có điếu văn mà chỉ có một cảm nhận rất ngắn của một thiền sinh.  
Cuối cùng, tất cả cùng nhau khiêng quan tài Thầy đưa ra nơi an nghỉ cuối  
cùng. Chị Phước cũng cho tôi biết, địa điểm chôn cất là nơi mà Thầy muốn.  
Chúng tôi lặng lẽ thả cát vào huyệt. Cát dần được lấp đầy. Lớp vữa bê tông  
được đổ lên trên cùng. Ngôi mộ vô cùng giản dị của Trưởng lão Thích  
Thông Lạc hoàn thiện quãng 17 giờ 30 phút chiều, trước khi trời tắt nắng.  
Trên đường về, chúng tôi ghé thăm chùa Am. Chúng tôi dừng chân nơi cốc  
đơn sơ với chiếc giường bằng đá bên trong, nơi Thầy bao năm tu hành viên  
mật. Chúng tôi gặp một số xe chạy ngược chiều. Quý thầy cô và Phật tử biết  
tin Thầy từ bỏ xác thân đang đến viếng. Họ muốn được tham gia lễ tang  
nhưng không kịp nữa rồi.  
Về đến nhà, tôi lôi sách của Thầy ra và ngắm. Đường về xứ Phật 10  
tập, Những lời gốc Phật dạy 4 tập, Đạo đức làm người 2 tập, Giáo án rèn  
nhân cách 3 tập,… Nhiều lắm. Tôi lặng người đi nhớ về một vị thầy vĩ đại  
và giản dị đến khó tin.  
Cách đây mấy tháng tôi đến tiễn đưa Hòa thượng Thích Minh Châu về nơi  
an nghỉ cuối cùng. Và hôm nay, tôi lại buộc phải vĩnh biệt Trưởng lão Thích  
Thông Lạc. Các thầy lần lượt ra đi, để lại chúng con. Thời mạt pháp tối như  
đêm dày như đất. Vắng Thầy chúng con dựa vào ai. Hay tự mò mẫm mà đi.  
Nguyện mong quý thầy chỉ đường chỉ lối để chúng con biết đường mà lội,  
biết lối mà đi. Để được tu theo thánh pháp.  
Ta sẽ có Niết Bàn ngay giữa cuộc đời  
này  
Bạn đã thực tập thiền ăn, thiền ngủ, thiền đi rồi chứ? Bạn có bao giờ thực  
tập thiền hát chưa? Nếu chưa, tôi nghĩ là hơi uổng.  
Có một bài hát rất hay. Lời ca như sau:  
Buổi sáng nghĩ điều lành,  
Buổi trưa làm điều lành,  
Buổi tối mộng điều lành,  
Ta có một ngày vui!  
Ta sẽ có Niết Bàn  
Ngay giữa cuộc đời này  
Ta sẽ có an lành  
Ngay trong trái tim ta.  
Lời bài hát rất đơn giản nhưng hay vô cùng. Càng ngẫm tôi càng thấy hay.  
Càng hát lại càng hay nữa. Nếu bạn nghe giai điệu thì mới là tuyệt vời. Khi  
bạn thả hồn mình vào ca từ, vào từng âm thì rất rất tuyệt diệu. Khi bạn hát  
bằng cả trái tim mình, toàn tâm toàn ý – đó chính là thiền hát.  
Cách đây gần 10 năm, lần đầu tiên tôi được thiền hát. Và từ đó tôi mê. Tôi  
mê thiền hát và hay hát. Cùng với cười, hát mang lại cho chúng ta rất nhiều  
niềm vui và năng lượng. Bạn nên hát tập thể nhé. Hát tập thể tốt hơn nhiều  
so với hát một mình. Giống như khi tọa thiền, có đại chúng, chúng ta nhập  
định nhanh hơn.  
Đôi khi ta coi thường những suy nghĩ của mình. Có những khi ta không để ý  
đến năm giác quan và để cho chúng tiếp xúc với thế giới bên ngoài và rồi  
chúng ta bị đưa vào nơi xấu ác, tự đánh mất mình lúc nào không hay. Chỉ có  
một cách để chúng ta có hạnh phúc thực sự – đó là làm chủ chính mình, làm  
chủ thân tâm.  
Cách làm chủ đúng nhất là làm chủ suy nghĩ. Tôi luôn tự nhắc mình trong  
mỗi suy nghĩ “Sinh thiện, tăng trưởng thiện. Ngăn ác, diệt ác pháp ”. Luôn  
nhắc mình như vậy. Luôn huấn luyện tâm như vậy. Nhất là buổi sáng. Đặc  
biệt khi mới ngủ dậy. Tôi tự mỉm cười thật tươi và “tác lí như ý” vào suy  
nghĩ của mình.  
Nếu như buổi sáng chúng ta nghĩ điều lành và cả buổi sáng nghĩ điều lành thì  
đến trưa chúng ta sẽ làm điều lành. Từ ý sẽ chuyển hóa ra khẩu, ra hành. Đó  
là nhân quả. Từ làm lành, giấc mộng chúng ta cũng lành luôn. Muốn ngủ  
ngon, ngủ sâu, muốn có nhiều năng lượng, chúng ta cần làm đúng như vậy  
mà thôi “nghĩ điều lành, làm điều lành”.  
Nhiều người tu để đạt Niết Bàn. Tôi thì không vậy. Tôi thấy Niết Bàn ngay  
bây giờ, ngay ở đây, ngay tại cõi ta bà này. Tâm chúng ta có đủ 10 cõi: Phật,  
Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Trời, Người, Atula, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa  
ngục. Chỉ cần chúng ta hướng thân khẩu ý của chúng ta về đâu, lập tức  
chúng ta đến cõi đó ngay. Rất đơn giản và thực tế. Sách báo, phim ảnh,  
internet… hiện nay chứa cõi nào, đưa ta về cõi nào, chắc bạn biết rõ hơn tôi.  
Lời bài ca này rất giản đơn và ai cũng có thể sáng tác thêm được. Vừa rồi tôi  
được nghe các bạn đồng tu hát thêm lời hai như sau: “Nhặt rau, miệng mỉm  
cười! Dọn cơm, miệng mỉm cười. Rửa bát, miệng mỉm cười. Ta có một ngày  
vui ”. Hay quá!  
Nghĩ sau, tôi ngẫu hứng: “Cầm sách, thở và cười. Đọc sách, thở và cười.  
Cùng sách, thở và cười. Ta có một đời vui”. Nghe tôi hát, cháu Tâm Nguyên  
Tuệ bé xíu đã sáng tác ngay: “Mở sách, miệng mỉm cười! Xem sách, miệng  
mỉm cười! Đóng sách, miệng mỉm cười. Con thấy đời thật vui”.  
Đời vui thật, đúng không bạn. Câu nói cửa miệng của tôi “Đời ơi, em đẹp  
quá ” đang được các bạn trẻ, nhất là học sinh, sinh viên rất thích. Mà đời làm  
sao có thể không đẹp được khi chúng ta được sống trong sự nhiệm màu của  
Phật pháp, của vũ trụ.  
Bạn đang có may mắn đọc những dòng chữ này (tôi nói may mắn, bởi đa  
phần các bạn khác đang lao vào internet với các tin tức bạo lực, kích động,  
thiếu giáo dục, bất an, với games, với các trò chơi vô bổ, rẻ tiền…). Nên tôi  
nhờ bạn một việc thôi: Cảm nhận hạnh phúc. Ngay bây giờ và ngay ở đây!  
Bởi, tôi nói thật nhé, đây là giây phút hạnh phúc. Hãy cùng nhau trao yêu  
thương, nhận năng lượng. Hãy cùng nhau bên nhau nhé bạn. Bởi chúng ta là  
một thì sẽ rất mạnh. Bởi, cùng nhau, chúng ta là một. Together we are one.  
Chúng ta là một bởi chúng ta đều là Phật tử, là con của Đức Từ Phụ, Đức  
Như Lai, Đức Phật kính yêu.  
Cả ngày an lành bạn nhé. Đừng quên!  
Ta bà Cực Lạc  
Tây phương Cực Lạc của đức Phật A-di-đà cách chúng ta 10 vạn ức cõi  
Phật. Những ai tu để được vãng sinh Tịnh Độ thì khi chết đi sẽ được về đó:  
Theo các Đại luận sư, ta có thể thiết lập Tịnh Độ, tự tạo ra cho mình cõi an  
lạc, giống như Tịnh Độ Tây phương, ngay trong cõi ta bà này. Phật dạy:  
“Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (Ba cõi chỉ là tâm, muôn pháp chỉ  
là thức). Vậy cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà cũng chỉ là cảnh giới  
của tâm thức. Và đã thế thì với cái tâm thức trong sáng, thiện lành, được tu  
sửa hàng ngày, ta có thể tạo thế giới Cực Lạc cho mình trong cõi ta bà này.  
Kinh A-di-đà là một trong những bản kinh đầu tiên mà tôi được tụng đọc khi  
chập chững học Phật. Mà có lẽ không chỉ riêng tôi mà hầu hết mọi Phật tử ở  
miền Bắc. Tôi đã nhiều lần miên man tưởng tượng về miền đất hứa Tây  
phương Cực Lạc. Bà tôi bảo cứ chịu khó niệm Phật và nhất định sẽ được  
vãng sinh về đó. Tôi hỏi và bà giải thích rằng, khi chết đi sẽ được Đức Phật  
A-di-đà tiếp đón về cõi Cực Lạc tuyệt vời này ở Tây phương.  
Lớn lên, có dịp chu du đây đó, tìm hiểu các pháp môn khác nhau cũng như  
các tôn giáo khác tôi càng thú vị khi đọc lại kinh A-di-đà. Nhưng cách đọc  
đã hoàn toàn khác với trước đây, khi còn nhỏ. Tôi đọc để ứng dụng ngay chứ  
không học để chờ đợi. Tôi đọc để có ngay chứ không muốn hi vọng trong  
tương lai xa vời.  
Và sáng nay tôi quyết định viết ra đây những cảm nhận thật của mình, thật  
100%, về cõi ta bà của chính mình ngay bây giờ, ngay ở đây.  
Tôi đã tự mình cùng bạn bè, người thân và các học trò quyết định lập ra  
Vườn Yêu Thương từ năm 2007, đúng lúc thành lập ra Thái Hà Books. Một  
nguyên tắc sống của tất cả chúng tôi là yêu thương, giúp đỡ và cảm thông  
lẫn nhau. Chúng tôi quyết định rằng cùng nhắc nhau không làm gì để gây tổn  
thương cho nhau, từ lời nói, hành động cho đến suy nghĩ. Rằng ngay khi  
chúng ta suy nghĩ không tốt về người khác cũng là đã làm xấu đi Vườn Yêu  
Thương chung. Nghe như vậy, có ai đó chưa được thuyết phục và vẫn nghĩ  
rằng mình bị bắt làm. Nhưng không, bạn biết đấy, khi mình nghĩ xấu về  
người khác, bạn bị ảnh hưởng đầu tiên: tâm bất an, người khó chịu, có khi  
còn bực tức nữa là khác. Mình bị thiệt hại đầu tiên.  
Chúng tôi cũng nhắc nhau tìm những điểm mạnh của nhau. Thay vì lôi ra,  
moi ra những cái xấu, điểm yếu mà ai chẳng có thì nhắc nhau tìm ra những  
thế mạnh, những tính hay của mỗi người để nhớ về họ và để nhắc mình học  
theo.  
Chúng tôi cũng luôn nhắc nhau giúp đỡ những người khó khăn, gặp hoạn  
nạn. Nếu không giúp được về vật chất thì động viên qua gặp gỡ, nhắn tin,  
email… Chúng tôi cũng bảo nhau tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, trì chú,  
phóng sinh, làm việc phước để hồi hướng công đức này đến các thành viên  
cụ thể đó. Kết quả luôn rất tuyệt vời và nếu riêng viết ra đã là cả hàng chục  
câu chuyện.  
Chúng tôi nhắc nhau yêu thương và lan tỏa yêu thương. Ngay trên facebook  
cá nhân của mỗi người cũng thường để những lời yêu thương, những câu nói  
tích cực, những lời động viên khen ngợi. Điều này chắc chắn có lợi cho bất  
cứ ai may mắn được đọc và nhất là cho chính người viết ra. Họ được hưởng  
lợi ít nhất ba lần: lúc nghĩ trong đầu, lúc viết ra và lúc đọc lại.  
Chúng tôi cứ dần dần và mỗi ngày thực tập. Từng chút, từng chút một. Khó  
lắm nhé, nhưng không nản. Và bây giờ tôi đang cảm thấy vô cùng bình an và  
thư giãn. Quanh tôi toàn người thiện người lành. Đi đến đâu cũng gặp người  
tốt, người có tâm an lạc.  
Tôi xem lại kinh A-di-đà thì thấy tả rằng “Tại vì ở nước Phật kia không có  
ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Ở nước ấy danh từ ác  
đạo mà còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo”. Nơi tôi đang sống  
đây cùng bạn bè và người thân cùng các học trò quả là đang có đôi nét tốt  
đẹp của cõi Tây phương Cực Lạc thật rồi.  
Sáng nay, cũng như mọi sáng, tôi tỉnh dậy không bởi đồng hồ báo thức mà  
bởi tiếng chim hót. Bạn có thể tưởng tượng rằng sáng nào quãng 5 giờ sáng  
chim cũng hót líu lo quanh tôi. Đủ các loại chim. Ngó ra ban công đã thấy  
chim đậu, nhảy nhót và hót rất hay. Tôi sống trong một căn hộ chung cư ở  
Thủ đô Hà Nội, đất chật người đông vậy mà chim nhiều lắm. Tôi tin rằng  
chim ở Hà Nội rất nhiều, vấn đề là bạn có yêu thương chúng hay không,  
hàng ngày và mỗi tối bạn có rải tâm từ và lan tỏa yêu thương đến mọi chúng  
sinh quanh bạn hay không. Và có lẽ bạn có để tâm hay không, có quan sát và  
chánh niêm trong mỗi phút giây cuộc sống để thấy được hay không.  
Tôi mở kinh A-di-đà xem lại và thấy được miêu tả rằng “Ở nước Cực Lạc  
kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kì diệu như Hạc trắng, Khổng  
tước, Anh vũ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già và Cộng mạng... Những con chim ấy,  
sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm hòa nhã: Trong giọng  
hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn,  
ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Dân chúng trong nước nghe  
được những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Phật, niệm  
Pháp và niệm Tăng.” Trời Phật ơi, quanh tôi không có những loại chim như  
trong kinh nhưng cũng đủ cả chim sẻ, chim chích chòe, chim sâu… và tiếng  
hót còn hay hơn cả dàn diễn xướng ấy chứ. Tôi nghĩ, đây cũng có bóng dáng  
của cõi Tịnh Độ.  
Tôi ở phòng thờ Phật ngồi thiền buổi sớm mai vẫn nghe thấy tiếng chim hót.  
Thời tụng kinh buổi sáng của tôi cũng hòa trong tiếng chim. Hiện tôi đang  
ngồi gõ những dòng chữ này thì tiếng gõ bàn phím vẫn xen lẫn tiếng chim  
hót. Có lẽ tôi phải mang gì đó ra ban công chiêu đãi các bạn chim yêu quý  
của chúng ta ngay thôi.  
Tôi có thói quen đi thiền hành ngay trong căn hộ của mình từ phòng này  
sang phòng khác. Có khi tôi chỉ nhẹ bước ngay trong phòng khách mà thôi.  
Dù diện tích chỉ hơn chục mét vuông với chiều dài vài mét cũng đủ cho tôi  
nhẹ bước thảnh thơi. Tôi luôn cảm nhận rất rõ sự xúc chạm của bàn chân  
xuống nền nhà. Nhẹ nhàng và êm dịu lắm. Tôi luôn được đất mẹ che chở và  
yêu thương. Sàn nhà hoặc bằng gỗ hoặc bằng gạch lát thì vẫn là từ đất mẹ  
mà.  
Buổi chiều tối tôi hay đi thiền hành quanh khu chung cư. Quanh khu tôi ở có  
khá nhiều cây. Có hôm rảnh và có hứng, tôi đi thiền một vài vòng quanh hồ  
Nghĩa Đô thì còn cảm nhận đất nhiều hơn, cây xanh hơn, hồ nước đẹp hơn,  
được ngắm cá, thấy chim nhiều hơn, thả lòng vào hoa nở, bướm lượn nhiều  
hơn.  
Tôi lại mở kinh A-di-đà ra và thấy rõ được miêu tả rằng “Ở nước Cực Lạc,  
có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều được  
làm bằng bốn thứ châu bảo, bao quanh giáp vòng, vì vậy cõi ấy được gọi là  
Cực Lạc. Ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có  
tám công đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm  
bằng vàng, bạc, lưu li và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu  
đài, cũng được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu li,  
pha lê, xà cừ, xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc  
bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng,  
sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa  
ra vi diệu và tinh khiết.”  
Lời kinh là lời bóng bẩy, tượng trưng, là lời của tâm nguyện, chỉ nhằm diễn  
tả sự cao quý của cõi Tịnh Độ. Vì vậy, tôi có thể cảm nghiệm lời kinh, trải  
nghiệm đôi phần hạnh phúc của cõi Cực Lạc qua việc tôi thiền hành trên mặt  
đất, trên cỏ, trên mặt sàn nhà trong căn hộ. Ấy vậy mà xung quanh tôi không  
biết có bao nhiêu người và có bao nhiêu phần trăm dân số mấy tỉ người của  
thế giới ta bà này biết cảm nhận.  
Sáng sớm ngồi ngắm hoa phượng đỏ và phượng vàng quanh căn hộ, thả hồn  
với hoa bằng lăng tím tôi thấy tâm hồn nhẹ nhàng lắm. Tôi theo dõi hơi thở.  
Thở vào tôi mỉm cười với bằng lăng. Thở ra tôi cám ơn hoa phượng đỏ rất  
đẹp. Tôi xin mang những bông hoa đẹp này xin được dâng lên chư Phật và  
chư Bồ Tát mười phương. Thật tuyệt vời.  
Vào phòng mở kinh A-di-đà ra, lại thấy “Mỗi ngày sáu lần có mưa hoa mạn  
đà la rơi xuống. Dân chúng nước ấy có thói quen buổi sáng lấy lẵng hứng  
đầy các bông hoa mầu nhiệm ấy để đem đi cúng dường các vị Phật đang cư  
trú ở vô số các cõi Phật khác ”. Tôi nghĩ rằng chư Phật đang rất hoan hỉ với  
những bông hoa đẹp kia mà tôi đang dâng bằng cả tâm mình, hơn cả những  
ai dâng hoa mạn đà la hay hoa vàng, hoa ngọc mà tâm không trọn vẹn. Hoa  
quanh tôi đẹp như thế kia cơ mà. Đang tỏa trong ánh ban mai. Đang đùa vui  
với gió.  
Trưa nay tôi sẽ ăn cơm với gạo lứt muối vừng và đĩa rau luộc giản đơn như  
trưa hôm qua mà luôn cảm thấy ngon vô cùng. Ngon bởi tôi tập trung ăn,  
nhai, nuốt để cảm nhận được từng vị ngọt, thơm và bổ của gạo, của vừng,  
của rau, của nước tương. Tôi ăn trong thảnh thơi và an lạc. Tôi vừa ăn vừa  
biết ơn những người nông dân đã một nắng hai sương vất cả để tôi có bữa ăn  
này. Và tôi như thấy họ đang quanh tôi, vui với tôi. Tuyệt vời vô cùng.  
Tôi có thú vui ngắm mặt trời mọc và mặt trời lặn. Tôi nhớ nhất những lần  
ngắm ở hồ Inle, ở Núi Vàng, ở Mandalay của Myanmar, ở Siem Riep của  
Campuchia, ở Grand Canyon của Mỹ, ở Great Ocean Road của Úc… nhưng  
mỗi sớm mai tôi vẫn thấy mặt trời ngày mới chiếu vào tôi rất tuyệt. Tôi ngồi  
(và có khi nằm) thỏa cho nắng đẹp chiếu vào tôi. Tôi như thu nạp năng  
lượng từ cha trời. Cảm giác làm cho mình rất khỏe và nhẹ.  
Đêm nào có trăng tôi ra ban công ngắm trăng. Trăng Hà Nội không thể tỏ và  
đẹp như trăng miền quê nhưng cũng rất đẹp. Hơn nữa tôi có may mắn hiếm  
có, nằm ngủ trên giường tôi vẫn ngắm được trăng đêm. Ôi sao mình lại may  
mắn đến thế!  
Rồi tôi lại mở kinh A-di-đà ra. Đây rồi “… ánh sáng vô lượng có thể chiếu  
soi được tất cả các cõi nước trong mười phương mà ánh sáng ấy không hề bị  
ngăn cách ”. Đúng thật rồi, ánh nắng mặt trời, mặt trăng như ánh sáng vô  
lượng cả ngày đêm soi chiếu cho tôi để tôi bớt mê đi, để tỉnh dần, để rồi  
được sống trong cuộc đời tỉnh thức.  
Khi ngồi gõ bây giờ tôi vẫn thấy hình ảnh Đức Phật. Tôi vẫn thấy phảng phất  
trong não những bài kinh với những lại dạy của Phật mà tôi đã từng tụng  
đọc. Tôi luôn nhớ lại những lời dạy đó để nhắc mình sống tốt hơn, thiện hơn.  
Và mỗi khi như vậy tôi lại cảm nhận như thật năng lượng và sự an lạc tràn  
ngập trong tôi. Vui biết bao.  
Cứu một mạng người phúc đẳng hà sa  
Tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể cứu được mạng người. Vẫn biết  
mạng người là rất quý nhưng làm sao mình có cơ duyên để cứu mạng người  
và cứu bằng cách nào. Rồi chuyện xảy ra vẫn cứ xảy ra. Tôi đã làm được  
điều tuyệt vời và quý giá này. Tất cả cũng chỉ nhờ Phật Pháp.  
Tôi cùng Hòa thượng Thích Viên Minh có một buổi giao lưu với các doanh  
nhân, tri thức và Phật tử trong chương trình “Phật Pháp ứng dụng”. Chương  
trình do Thái Hà Books tổ chức nhằm giúp các doanh nghiệp và những ai  
quan tâm hiểu tốt hơn về Đạo Phật, nhằm giải đáp các thắc mắc, mang lại  
cuộc sống bình an và cân bằng cho mọi người. Tên của chương trình là “Tìm  
lại chính mình”. Hội trường chật kín. Một số người phải đứng. Khoảng gần  
200 khách đến dự với những khuôn mặt quen và lạ. Tôi ấn tượng nhất là hầu  
hết những người đến dự vẫn ở lại đến phút chót. Nhiều người đến bắt tay và  
cám ơn tôi.  
Sau khi chương trình kết thúc, tôi nhận được khá nhiều điện thoại, email và  
tin nhắn. Tôi rất vui vì những gì chương trình đã mang lại. Tuy nhiên, thật  
bất ngờ, câu chuyện không chỉ dừng ở đó.  
Tin nhắn đầu tiên tôi nhận được từ chị là những dòng chữ: “Cám ơn anh đã  
cho tôi một buổi tọa đàm thật ấn tượng mà trong sâu thẳm của trái tim,  
không phải ai cũng có cái tâm để thực ngộ và cái tâm để noi theo. Anh thật  
đặc biệt và tôi nghĩ anh có nhiều điều mà tôi phải học hỏi. Xin nhận từ tôi  
lòng ngưỡng mộ và trân trọng”.  
Tuy nhiên không lâu sau đó, tôi lại nhận tin nhắn tiếp theo của chị: “Dù dự  
buổi tọa đàm của anh, nghe anh nói, một số doanh nhân giàu có, vợ đẹp, con  
ngoan mà vẫn muốn tự tử chết vì nhiều nỗi. Vậy như tôi, một phụ nữ không  
giàu, chồng bội bạc, suy sụp, không có một thứ gì đáng kể thì có đáng phải  
tự tử không anh. Giờ đây tôi không thiết sống nữa. Tại sao họ giàu có, hạnh  
phúc mà còn muốn tự tử. Hãy cho tôi một lời khuyên, rằng tôi có đáng sống  
trên cõi đời này nữa hay không! Buổi tọa đàm của anh đã không giúp được  
tôi đứng vững trước cuộc đời này. Thật bất công! Anh là người của nhà Phật  
mà”.  
Tin nhắn này làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi ngay lập tức gọi lại nhưng chị  
không nghe máy. Tôi hoàn toàn không tưởng tượng ra chị như thế nào, bao  
nhiêu tuổi, tính cách hay nghề nghiệp ra sao. Ít nhất phải có một số hiểu biết  
về chị mới có những tư vấn hợp lí và hiệu quả nhất chứ. Nhưng ít ra tôi  
đoán, chị cũng không còn là một cô bé vì xưng hô là “tôi” với “anh”. Không  
trả lời điện thoại đồng nghĩa chị muốn giấu mình. Không nhấc máy có nghĩa  
rằng chị đang rất buồn.  
Tôi bắt đầu nhắn tin nói về sự kì diệu của cuộc sống, về sự may mắn khi có  
thân này trên đời, về Đức Phật và những lời dạy của Ngài. Tóm lại tôi nhắn  
những gì mà tôi nghĩ rằng sẽ giúp được chị lấy lại bình an và cân bằng cuộc  
sống. Tôi biết và hiểu chị đang chán nản, thất vọng. Tuy nhiên tin nhắn tiếp  
theo của chị vẫn là sự chán chường và thậm chí chị quyết tự vẫn bằng được.  
Tôi niệm Phật, tụng kinh, trì chú và rải tâm từ. Tôi suy nghĩ và chuyển năng  
lượng cùng tình yêu thương đến chị. Tôi ngồi thiền và thư giãn để tâm mình  
lắng hơn, để biết cách giúp chị, tôi phóng tâm mình về phía người phụ nữ  
đáng thương và tội nghiệp này.  
23 giờ 47 phút ngày 01/07 tôi nhận được tin nhắn chết người: “Cách đây 10  
phút tôi vừa thoát chết trong một tai nạn giao thông tại ngã tư Mai Thị Lựu  
và Nguyễn Văn Giai. Vừa đọc xong tin nhắn của anh, chắc có lẽ lời khuyên  
của anh đã độ cho tôi. Xin nhận ở tôi sự kính trọng”.  
Tôi giật mình – hóa ra chị tự sát thật! Hú vía vì chị đã thoát chết, đã qua  
khỏi. Tôi hiểu rằng, thậm chí chị không bị thương tích, hoặc bị thương đáng  
kể – dù sao chị vẫn nhắn được tin cho tôi mà! Tôi mất ngủ đêm đó. Phần vì  
nghĩ về cuộc sống, về ba chữ Vô thường, Khổ và Vô ngã, phần vì thấy vui vì  
mình làm những việc rất đơn giản nhưng đã cứu được một mạng người. Tôi  
cứ suy nghĩ miên man, nếu chúng tôi không tổ chức chương trình “Tìm lại  
chính mình”, nếu chị không đến dự, nếu tôi không hết mình khi gửi một loạt  
tin nhắn đến chị thì sao nhỉ. Dù sao chị vẫn còn sống. Tôi thiếp đi trong sự  
sung sướng ít thấy.  
Tin nhắn tiếp theo tôi nhận từ chị có nội dung: “Cám ơn anh thật nhiều. Tôi  
luôn biết trong sâu thẳm của tâm hồn là tâm linh. Tôi đã vượt qua lằn ranh  
của sự sống và cái chết. Anh đã cứu mạng tôi. Giờ đây tôi đã thoát chết  
nhưng vẫn chưa thoát khỏi chính mình. Mong anh giúp sức để tôi có nghị  
lực và can đảm. Tôi muốn ra khỏi sự buồn đau vô hạn. Xin vui lòng yểm  
trợ”.  
Từ đó tôi luôn hướng về chị, người phụ nữ không quen biết, không biết mặt,  
không biết tên, với tấm lòng và tình yêu thương. Tôi học và thực tập hai chữ  
“từ bi” để ứng dụng. Và cuối cùng tôi quyết định bay vào Sài Gòn để gặp  
chị. Tôi thiết nghĩ, chỉ có gặp trực tiếp tôi mới có thể giúp được chị hiểu về  
chính mình, về cuộc sống tuyệt diệu này, về ý nghĩa và sự quý giá của thân  
người, về trách nhiệm của mình với gia đình, bạn bè và xã hội.  
Trước khi bay, tôi bất ngờ nhận được tin nhắn của chị: “Tôi suy nghĩ nhiều.  
Không biết có nên gặp anh hay không. Tôi làm phiền anh quá nhiều rồi. Và  
tôi cũng chỉ là một người bình thường trong xã hội. Có đáng làm mất thời  
gian của anh hay không. Chỉ mong anh hỗ trợ tinh thần từ xa là quý rồi. Hãy  
giúp tôi có nghị lực và sự can đảm. Có vậy tôi mới trả hết nghiệp được. Đó  
là sự vô hạn. Thôi, tôi không gặp anh nữa đâu ”.  
Tôi càng quyết bay vào. Lòng rối bời nhưng nhẹ nhàng, tâm lo nghĩ nhưng  
trống lặng. Không biết mình có khả năng giúp chị thoát hẳn khỏi cơn u mê  
này hay không và bằng cách nào. Nhưng dù sao tôi cũng rất vui, thật sự  
mừng. Tôi đã cứu được một mạng người, một người không biết tên cũng  
chẳng rõ mặt, ở tận phía Nam của tổ quốc.  
Tôi lên máy bay để hai tiếng sau sẽ có mặt tại thành phố nơi chị đang sống.  
Một mạng người quý biết nhường nào. Hãy “tìm lại chính mình” chị nhé.  
Ước gì ta được làm vua  
Tôi cứ nghĩ, thật may mắn khi không phải ước muốn nào của con người cũng  
đều biến thành sự thật. Nếu như ai ước cái gì cũng được cái đó thì có lẽ vũ  
trụ cũng không đủ chứa hết được. Tuy nhiên, nếu ước nhiều quá, cuối cùng  
ta cũng chỉ quay lại cái giản dị ban đầu mà thôi.  
Có một người thợ chuyên tạc đá. Anh đẽo đá ngày đêm, tạo ra các bức tượng  
và tác phẩm nghệ thuật. Ngày nọ, đang đẽo đá anh thấy nhà vua và đoàn tùy  
tùng đi ngang qua. Anh thấy nhà vua sướng quá, được ngồi trên kiệu, có kẻ  
hầu người hạ. Đúng là sướng như vua! Thế rồi anh thợ đục đá mơ ước trở  
thành vua.  
Ước gì được nấy, anh ngay lập tức biến thành vua. Anh được cho lên kiệu và  
khiêng đi khắp đó đây, không phải đi bộ. Tuy nhiên ngồi trên kiệu một lúc  
cũng mỏi. Hơn nữa mặt trời chiếu nắng làm anh ta nóng nực đến hết chịu  
nổi. Tự nhiên anh ta nghĩ, vua vẫn thua mặt trời. Phải là mặt trời mới chiếu  
sang đến được muôn phương, mới làm chủ được trái đất.  
Ước gì được nấy. Anh thợ đá, giờ đã thành vua ngay lập tức biến thành mặt  
trời. Thế là anh ta thỏa sức chiếu sáng muôn nơi. Anh có thể làm người ta  
ấm lên, thậm chí nóng cháy da. Tuy nhiên, sau vài ngày chiếu sáng anh ta  
phát hiện ra những đám mây đã ngăn mất ánh sáng của mình. Hóa ra những  
đám mây còn có quyền lực hơn cả mặt trời, ngăn ánh sáng do mặt trời chiếu  
ra. Và anh ước muốn thành đám mây.  
Ước sao được vậy. Mặt trời biến thành mây. Mây tha hồ bay lang thang khắp  
đó đây. Mây che mặt trời. Mây che mát cho đồng ruộng, phố phường. Tuy  
nhiên, bay rồi anh cũng gặp phải núi. Núi cao đã ngăn mây lại. Anh ta không  
thể bay tiếp được. Anh nghĩ, hóa ra núi còn có quyền lực hơn cả mây. Và thế  
là anh ta ước mong thành núi. Phải cao như núi, vững như núi, hùng vĩ như  
núi mới hơn được tất cả.  
Mong ước – được nên. Mây biến thành núi. Từ đó, các đám mây bay qua đều  
bị núi chặn lại. Anh chàng rất hả hê. Tuy nhiên sau một thời gian, anh phát  
hiện ra các thợ đá bắt đầu đến phá núi. Họ xẻ núi lấy đá làm tượng, xây công  
trình. Anh ta vô cùng đau đớn khi bị thợ đá xẻ thịt mình không thương tiếc.  
Hóa ra mấy anh thợ đá bé xíu kia lại có quyền hơn cả núi. Và anh ta mơ ước  
trở thành anh thợ đá.  
Núi biến thành anh thợ đá. Bây giờ anh thợ đá đã thật sự thỏa mãn, thật sự  
vui sướng và hạnh phúc. Hàng ngày anh cần cù làm việc, tạo ra  
các tác phẩm nghệ thuật. Anh ăn những bữa ăn giản dị nhưng ấm cúng và  
đầy tình yêu thương. Anh hoàn toàn mãn nguyện và biết rằng dù có là mặt  
trời, là mây, là núi gì đi chăng nữa cũng không bằng là chính anh của bây  
giờ!  
Tôi cũng vậy. Ngày nhỏ ở quê nhà tôi rất nghèo, phải ăn ngô, ăn khoai, ăn  
sắn, phải ăn dưa cà muối, canh mồng tơi, rồi rau lang luộc. Tôi ước mơ mau  
giàu có để có nhà tầng, được ăn gà, ăn thịt thoải mái. Thế rồi cũng đến lúc  
mình có nhà lầu, xe hơi, đồ ăn thức uống đầy tủ lạnh. Thỏa lòng ước mong  
bao nhiêu năm!  
Tuy nhiên, thời bây giờ, không chỉ tôi mà bao doanh nhân, cũng như hầu hết  
người thành phố muốn ăn đặc sản. Đặc sản lại chính là những món ăn ngày  
xưa tôi “phải ăn”, “bị ăn”. Bây giờ ai cũng mong được ở trong những ngôi  
nhà ngói, có nhiều cây xanh, cánh đồng, dòng sông và rau sạch, trái cây.  
Giống như nơi tôi sống trong nghèo khó thời xưa!  
Ước muốn của con người là vô tận. Nếu chúng ta biết sống thiểu dục, biết  
hài lòng với những gì mình đang có, ngay bây giờ, ngay ở đây, thì cuộc đời  
thật tuyệt diệu làm sao. Mong gì thì mong, ham muốn lớn đến mấy không  
biết nhưng rất có thể, chúng ta sẽ phát hiện ra điểm xuất phát ban đầu mới là  
tuyệt vời nhất. Tôi chợt nhớ đến một câu rất hay của Trịnh Công Sơn “Đi  
đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt!”  
Học Phật ta không chỉ học trong kinh, trong sách. Tu Phật cũng không chỉ là  
tụng kinh, niệm phật, ngồi thiền. Mỗi câu chuyện quanh ta là những bài học,  
là những bài pháp vô cùng vi diệu. Nếu chúng ta biết quan sát và ứng dụng  
vào cuộc sống, việc tu tập của chúng ta sẽ tiến bộ rất nhanh, rất đúng chánh  
pháp.  
Tôi đã tìm thấy vốn quý Cố đô  
Là người Hà Nội nhưng khá mê Huế, mê cả thành phố mộng mơ lẫn con  
người quyến rũ, cả sông Hương huyền bí lẫn những thắng cảnh khó quên, cả  
sự dịu êm, chậm rãi, nhẹ nhàng lẫn những món ăn khác lạ. Nhưng điều tôi  
rất muốn khám phá là ca Huế. Đã ít nhất hai lần trên thuyền ngắm sông  
Hương và nghe ca hò Huế nhưng tôi chưa một lần mãn nguyện! Hình như  
những lời ca đó chưa đủ sâu, đủ đậm để ngấm vào hồn tôi?  
Và tôi mang câu chuyện này tâm sự với những người Huế, những bậc thầy  
về Huế – thầy Trần Đình Niệm, thầy Lê Văn Lợi, thầy Nguyễn Tư Triệt,  
thầy Cao Huy Hóa… để cuối cùng tôi tìm được đúng điều mình muốn. Vốn  
quý Cố đô đây rồi!  
Tôi tìm đến nhà thầy Bửu Ý từ 14 giờ chiều mặc dù được biết 17 giờ 30 phút  
mới bắt đầu buổi sinh hoạt thường kì của Câu lạc bộ ca hò Huế Nguyễn Thị  
Lợi. Tôi đến sớm bởi muốn tìm hiểu về ca Huế trước khi thưởng thức.  
Quả thật thầy Bửu Ý có vốn hiểu biết quá lớn, lớn hơn nhiều so với những gì  
tôi biết. Trước đây tôi chỉ biết về một Bửu Ý như một tác giả, dịch giả, thầy  
giáo hay một người bạn thân thiết của Trịnh Công Sơn. Nhưng đến đây mới  
thấy, thầy là một nhà Huế học thực thụ và có vốn hiểu biết về ca hò Huế  
đáng nể.  
Hóa ra thầy Bửu Ý và Câu lạc bộ sinh hoạt tại số 9 Phạm Ngũ Lão đã 14  
năm nay! Hóa ra Bửu Ý dẫn dắt Câu lạc bộ một cách “tình cờ” và là duyên  
phận. Nghệ sỹ Nguyễn Thị Lợi, vợ của thầy Bửu Ý mới là người lập ra Câu  
lạc bộ ca hò Huế. Sau khi nghệ sỹ Nguyễn Thị Lợi mất vào năm 2005, Bửu  
Ý đã “buộc phải” tiếp tục sự nghiệp này!  
Chủ nhà chuẩn bị sẵn trà, bánh ngọt, dứa (trái thơm), ô mai (xí muội). Và  
thêm cả ba chậu hoa chuông với ba màu trắng, đỏ và tím mà đích thân thầy  
Bửu Ý đi mua về. Hình như hoa cũng góp phần cho sinh hoạt CLB ca hò  
Huế Nguyễn Thị Lợi thêm ấm cúng và sâu sắc.  
Lần lượt các nghệ sỹ có mặt. Đến sớm nhất là nghệ nhân dân gian Minh  
Mẫn. Năm nay bà 86 tuổi và đến sinh hoạt bằng xích lô. Cùng song hành với  
bà là “người bạn thân thiết” – cây gậy sáng bóng bằng inox! Tiếp sau đó là  
nghệ nhân dân gian Thanh Hương 82 tuổi. Hóa ra hai cây đa cây đề của ca  
hò Huế là đây! Tôi nghe tên họ, biết về họ, đọc về họ nhưng nay mới có  
duyên may được gặp trực tiếp. Tôi thấy người xôn xao, bâng khuâng, bịn rịn  
và tâm trạng rất khó tả.  
Tiếp theo là sự có mặt của nghệ sỹ Thanh Vân – đàn tranh, nghệ sỹ Nguyễn  
Ngọc Hùng – đàn tì bà, và các nghệ sỹ trẻ khác như Diệu Huệ, Diệu Bình,  
Hồng Cúc. Để rồi đúng 17 giờ 30 phút buổi sinh hoạt bắt đầu.  
Tôi bị hút hồn bởi bài đầu tiên do nghệ sỹ Diệu Huệ thể hiện. Phải thú thật  
rằng, là người không am hiểu về ca hò Huế, hơn nữa vì mải nghe, mải  
thưởng thức giai điệu nên không biết tên bài. Chỉ biết rằng nó thấm đẫm chất  
Huế, đượm tình người, sâu hồn trời đất và ngấm vào từng tế bào cơ thể tôi.  
Tôi như được tắm dòng ca Huế. Thật sự là vậy.  
Diệu Bình, một nghệ sỹ trẻ ca về nữ sinh Đồng Khánh. Tôi như thấy hiện  
trước mặt mình những nữ sinh đó. Tôi như bị mê hoặc bởi dáng dấp, giọng  
nói, tiếng cười của những nữ sinh qua lời hò. Tôi như thấy mình trẻ hơn. Tôi  
mơ màng nghĩ về tình yêu với một cô nữ sinh Đồng Khánh. Hình như đây  
mới là ca Huế thực thụ.  
Hồng Cúc là nghệ sỹ ngâm thơ. Chị là “đệ tử ruột” của hai cây đa Minh Mẫn  
và Thanh Hương nên thường xuyên “theo hầu”. Rồi ca hò ngấm vào chị lúc  
nào không biết. Rồi chị bắt đầu học lúc nào không hay. Chiều nay chị ca bài  
“Mười thương”. Hay quá trời ơi! Có lẽ tôi như chưa bao giờ hiểu được mười  
lí do để thương nhau như hôm nay!  
Và phần mà tôi mong đợi nhất đã đến. Lời ca của hai nghệ nhân dân gian.  
Đó là các tác phẩm “Trăng thu tỏ” và “Nước non ngàn dặm ra đi”. Có lẽ ít ai  
để ý rằng buổi sinh hoạt này diễn ra vào đúng ngày mười bốn. Và ngày mai  
thôi là ngày rằm. Rằm tháng Ba – mặt trăng có kích thước lớn nhất vì gần  
chúng ta, gần trái đất nhất. Nghe ca “Trăng thu tỏ” khi chuẩn bị đón trăng  
xuân Huế, trăng siêu trăng – thật không gì quý hơn và ý nghĩa hơn!  
“Nước non ngàn dặm ra đi” tôi nghe nhiều lắm rồi. Nhưng lạ thay, lần nào  
cũng vậy, càng nghe càng thấy hay. Mỗi lần tôi cảm nhận “cái hay”, “cái  
hồn” một cách khác nhau. Mỗi lần một cảm xúc khác biệt hoàn toàn. Câu  
chuyện về một nàng công chúa chưa đến 20 tuổi ra đi lấy chồng, một người  
đàn ông xa xứ, cũng chỉ vì đất nước, giang sơn. Tất cả để mở cõi. Tâm sự  
của con người sao mà cao cả đến vậy. Tôi ngàn lần khâm phục Võ Chuẩn.  
Không biết bằng cách nào và với những gì trong tâm mà ông có thể viết ra  
được khúc ca kì diệu đến như thế! Nhất là lại được nghe từ chính cây đa cây  
đề của ca hò Huế nữa!  
Ca Huế đâu có phải để hát cho cả trăm người nghe – thầy Bửu Ý nói với tôi  
như vậy. Nghe ca Huế là phải ngồi chiếu, và chỉ ca chỉ hát cho những người  
bạn tri ân với nhau. Và phải được nghe những khúc như Nam ai, Nam Bình,  
Tứ đại cảnh, Kim tiền... Bởi ca rất khó. Vì quá khó nên không dễ được nghe  
– thầy Bửu Ý cho biết thêm. Khó ở đây là từ cách ca, đến việc nhập phách,  
từ âm đến giọng… Tôi lờ mờ hiểu như thế.  
Chỉ khi được đến nhà của thầy Bửu Ý tôi mới biết rằng, suốt 14 năm qua  
Câu lạc bộ ca hò Nguyễn Thị Lợi sinh hoạt đều đặn. Sinh hoạt để bảo tồn di  
sản văn hóa. Sinh hoạt để có sân chơi thực thụ. Cũng rất may là quỹ bảo tồn  
di sản Việt Nam của một số giáo sư Mỹ VHI hỗ trợ từ 2004 và đến hết năm  
2011. Chính vì vậy Câu lạc bộ mới có cơ hội mở các lớp đào tạo các nghệ sỹ  
trẻ. Hiện có một lớp ca và bốn lớp đàn (tì bà, đàn tranh, đàn bầu và nhị). Câu  
lạc bộ mượn địa điểm tại đường Phú Xuân nơi nuôi trẻ mồ côi, dù lớp ít  
người vẫn dạy. Nhất là khi các cháu mồ côi được học ca hò Huế thì đó là  
niềm vui bất tận của những ai tâm huyết với vốn quý Cố đô này.  
Buổi sinh hoạt kết thúc lúc 19 giờ nhưng không ai muốn về. Tôi lại càng  
không muốn. Bởi biết đến bao giờ mới được gặp lại. Bởi cơ hội hiếm mà tôi  
mong chờ suốt bao năm nay giờ mới thành sự thật.  
Khi gõ những dòng chữ này, không hiểu sao, những giai điệu, những âm  
thanh của buổi sinh hoạt cứ vang vọng trong đầu tôi. Tôi không muốn xa  
Huế. Tôi không muốn làm gì khác. Phải ngồi viết lại đã. Vừa viết vừa  
thưởng thức. Bởi tôi biết mình đã tìm thấy vốn quý Cố đô.  
Thiền chết  
Tôi biết đến thiền từ lâu rồi. Ngày xưa cứ nghe thấy ở đâu dạy thiền là mò  
đến. Đến để học. Thú vị nhất là có nơi vào học thiền, tôi hỏi thầy, thiền là gì,  
thầy bảo, cứ vào ngồi, nhắm mắt vào là thiền. Tôi nhìn vào trong thấy khá  
đông người và ngồi nhắm mắt. Hồi nhỏ tôi hiểu rằng, thiền là nhắm mắt!  
Lớn lên tôi mới được học thiền căn bản, từ thiền định đến thiền tuệ, từ thiền  
tọa, thiền ngồi, thiền đứng, thiền hành, thiền ăn, thiền trà… Tuy nhiên, tôi  
đặc biệt chú ý và thích thiền sẻ chia, thiền lắng nghe và thiền chết.  
Nhiều học trò và bạn bè của tôi cũng thích thiền sẻ chia và lắng nghe. Đơn  
giản khi đó, tất cả chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trong không khí thân  
mật và ấm cúng. Thường thiền lắng nghe và sẻ chia diễn ra vào buổi tối.  
Chúng tôi tắt hết điện đi, chỉ thắp nến, nhất là loạt nến thơm. Và chúng tôi  
dành chút thời gian thư giãn, bình tâm, tọa thiền. Sau đó, chúng tôi lần lượt  
sẻ chia những suy nghĩ, cảm nhận, kể cả những bức xúc của mình. Người sẻ  
chia thì thành tâm tâm sự. Thường chúng tôi không khống chế thời gian. Lần  
lượt ai cũng được sẻ chia. Lần lượt theo chiều kim đồng hồ từ phải qua trái.  
Khi bắt đầu sẻ chia, ta chắp tay búp sen và cúi xuống chào đại chúng với  
thông điệp ngầm trong lòng “Búp sen thơm xin tặng người, một vị Phật của  
tương lai. Cho phép con xin được sẻ chia suy nghĩ của mình”. Và tất cả đại  
chúng cùng chào lại. Khi kết thúc, bao giờ cũng nói “cám ơn” và xá chào  
mọi người. Đại chúng cùng đồng thanh xá lại.  
Người nghe chỉ việc nghe, không phán xét, không kết luận. Đơn giản chỉ tập  
trung nghe. Nghe để hiểu, để cảm thông. Có nghe thì mới hiểu. Có hiểu thì  
mới thương. Càng lắng nghe, càng hiểu, càng thương. Tình yêu thương và sự  
cảm thông lớn dần sau mỗi lần thiền sẻ chia và lắng nghe như vậy. Những  
giọt nước mắt ít khi thiếu vắng trong những buổi thiền này.  
Nhưng tôi và nhiều người thích thiền chết hơn. Thiền chết rất đơn giản: Bạn  
chỉ cần nằm ra đất hay trên giường, hoàn toàn thả lỏng tay chân mắt nhắm,  
hoàn toàn nằm như người chết. Bạn chỉ theo dõi hơi thở nhẹ nhàng. Thật nhẹ  
nhàng theo dõi hơi thở. Buông bỏ tất cả. Buông bỏ hoàn toàn. Mỗi thiền sinh  
tưởng tượng mình đã chết rồi, không còn biết gì, không còn quan tâm đến  
bất cứ thứ gì nữa.  
Theo kinh nghiệm, nếu như ta thiền chết được 30 phút thì có thể phục hồi  
năng lượng đã tiêu hao trong cả 24 giờ đồng hồ. Vậy nên, đôi khi chỉ cần 5  
hay 10 phút thiền chết thì đã rất kì diệu rồi, đã lấy lại được rất nhiều năng  
lượng tiêu hao.  
Vấn đề là ở chỗ, nếu coi mình đã chết rồi thì chúng ta sẽ buông hết mọi suy  
nghĩ, buông bỏ mọi vướng bận và khi đó chúng ta quay lại được với chính  
mình. Lúc đó không còn bản ngã, không còn cái tôi nữa. Lúc đó năng lượng  
tự tràn vào khắp cơ thể, chảy khắp 72 ngàn ống tuýp năng lượng. Khi thiền  
chết, chúng ta có nguồn an lạc vô biên, sự thảnh thơi kì lạ, sự bình an khó tả,  
nguồn năng lượng dồi dào.  
Trong các buổi giao lưu, khi thiền chết, tôi hay dẫn thiền. Đó là những lời  
nói êm dịu, nhẹ nhàng, giúp các thiền sinh định tâm nhanh, buông xả nhanh  
và sớm có bình an. Bạn sẽ thấy, bình thường nếu như đang thiền sẽ rất dễ  
ngủ mất lúc nào không hay. Ngủ khi đó cũng rất tốt cho thân và tâm.  
Cuộc đời thật ngắn ngủi. Chúng ta gặp nhau và cùng nhau tu tập là một thiện  
duyên lớn. Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp.  
Chúng ta bước vào cuộc đời nhau vì một lí do. Đó là cách thế giới này vận  
hành. Chúng ta cùng nhau tu tập bởi chúng ta có duyên từ trước. Đó là một  
đặc ân, một sự nhiệm màu khó tả.  
Tất cả mọi thứ tồn tại trên thế gian này đều có lí do của nó. Bạn và tôi cùng  
thiền với nhau cũng có lí do, dù bạn có biết lí do đó hay không. Không có sự  
ngẫu nhiên nào cả. Chúng ta sống trong vũ trụ có kỉ luật, bị chi phối chặt chẽ  
bởi quy luật và sự hiểu biết này là trung tâm của các quy luật hay nguyên tắc  
khác. Được tu tập cùng nhau là một diễm phúc lớn. Chỉ có một cách duy  
nhất là tận dụng cơ hội, cùng bên nhau, động viên nhau và giúp nhau tu tập.  
Bạn cũng nên nhớ rằng, bất cứ điều gì xảy ra thì đó chính là điều nên xảy ra.  
Khi thiền chết, bạn hoàn toàn quên đi những gì đã xảy ra. Trong mỗi khoảnh  
khắc, mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm. Trong thiền chết, bạn buông  
bỏ hoàn toàn và được trải nghiệm cái không là gì cả để thảnh thơi và an lạc.  
Những gì đã qua bạn hãy cho qua. Tôi mong mỗi ngày bạn dành ít nhất 10  
phút để thiền chết. Ít nhất là 10 phút trước khi bạn ngủ. Mỗi đêm.  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 69 trang yennguyen 06/04/2022 3100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hạnh phúc thật giản đơn (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhanh_phuc_that_gian_don_phan_2.pdf