Valuing heritage as a public good initial application to zonal travel cost method in Hoi An, Vietnam

VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
Original Article  
Valuing Heritage as a Public Good Initial Application  
to Zonal Travel Cost Method in Hoi An, Vietnam  
Bui Dai Dung*, Nguyen An Thinh,  
Nguyen Thi Vinh Ha, Nguyen Thi Hoa Hanh  
VNU University of Economics and Business,  
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam  
Received 5 August 2019  
Revised 24 September 2019; Accepted 24 September 2019  
Abstract: A literature overview shows that almost all of the valuation researches for heritage have  
built demand curves as for private goods. We argue that heritage is a high-end purity public good.  
A heritage valuation research would yield more accurate results if the demand curve could be built  
as that of a public good. This paper presents arguments for the superiority of the public good  
demand curve over that of private goods in the scope of heritage valuation, and initially applies the  
Zonal Travel Cost Method (ZTCM) in evaluating Hoi An, a World Heritage town in Central  
Vietnam, to look for evidence of such superiority. Evidence shows that: (i) The relationship  
between visits and travel cost could be represented more accurately by the public good’s demand  
curve rather than the private good’s curve; (ii) To build the demand curve for such a World  
Heritage site (tourists are inhomogeneous), it requires an additional technique to minimize  
potential distortions, in which the purchasing power parity ratio (PPP ratio) is used to adjust  
inconsistencies in actual traveling costs; (iii) The value of Hoi An, which is valued at  
4,255,724,958 USD in accordance with its public good’s demand curve, shows that it is 206.6%  
higher than the value computed according to the private goods’ demand curve.  
Keywords: Heritage valuation, valuation methods, heritage as a public good, demand curves of  
heritage as a public good, ZTCM.  
*
_______  
* Corresponding author.  
E-mail address: dungbd@vnu.edu.vn  
11  
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
Lượng giá di sản với cách tiếp cận xây dựng  
đường cầu hàng hóa công: Áp dụng ban đầu phương pháp  
lượng giá chi phí du lịch theo khu vực tại Hội An, Việt Nam  
Bùi Đại Dũng*, Nguyễn An Thịnh, Nguyễn Thị Vĩnh Hà, Nguyễn Thị Hoa Hạnh  
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 5 tháng 8 năm 2019  
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 9 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 9 năm 2019  
Tóm tắt: Tổng quan nghiên cứu cho thấy hầu hết các nghiên cứu lượng giá đối với di sản đều xây  
dựng đường cầu với cách tiếp cận đường cầu của một hàng hóa tư. Chúng tôi lập luận rằng di sản  
là một dạng hàng hóa công có tính thuần túy khá cao. Việc lượng giá đối với một di sản có thể đem  
lại kết quả chính xác hơn nếu đường cầu được thiết lập dựa trên cách tiếp cận xây dựng đường cầu  
của một hàng hóa công. Nghiên cứu này trình bày những lập luận về tính ưu việt của việc lượng  
giá di sản giữa cách xây dựng đường cầu của hàng hóa công so với đường cầu của hàng hóa tư, và  
áp dụng ban đầu cho phương pháp lượng giá chi phí du lịch theo khu vực (ZTCM) đối với di sản  
Hội An, Việt Nam. Kết quả cho thấy: (i) Đường cầu hàng hóa công phản ánh sát thực mối quan hệ  
giữa số lượng du khách và mức chi tiêu du lịch hơn so với đường cầu hàng hóa tư; (ii) Việc xây  
dựng đường cầu hàng hóa công cho một di sản thế giới (với các nhóm du khách đa dạng từ nhiều  
châu lục) cần bổ sung nhiều kỹ thuật hạn chế nhiễu về giá, trong đó có việc áp dụng hệ số sức mua  
tương đương (PPP) đối với chi phí du lịch; (iii) Giá trị khu vực phố cổ Hội An được lượng giá theo  
đường cầu hàng hóa công cho kết quả là 4.255.724.958 USD, cao hơn 206,6% so với giá trị lượng  
giá bởi đường cầu hàng hóa tư (theo cùng bộ số liệu khảo sát).  
Từ khóa: Lượng giá di sản, phương pháp lượng giá, di sản hàng hóa công, đường cầu hàng hóa  
công di sản, ZTCM.  
1. Mở đầu *  
Di sản hàm chứa những giá trị quý báu mà  
những thế hệ trước tạo tác hoặc bảo vệ, duy trì,  
rồi truyền lại cho thế hệ sau. Đây không chỉ là  
những tài sản chung của cộng đồng địa phương  
nói riêng, mà còn là tài sản của một quốc gia,  
của nhân loại nói chung. Trong suốt quá trình  
tồn tại, di sản không ngừng đem lại lợi ích cho  
nền kinh tế và đời sống người dân, đồng thời  
cần những chi phí nhất định để vận hành bộ  
máy quản lý; tiến hành duy tu, tôn tạo... nhằm  
bảo đảm phát huy lợi ích tối ưu, dài hạn của  
di sản.  
Để tránh được nhận thức thiếu hụt về giá trị  
hoặc khai thác quá mức tiềm năng của di sản,  
chuyên ngành khoa học lượng giá có nhiệm vụ  
xác định và cung cấp thông tin sát thực về giá  
_______  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: dungbd@vnu.edu.vn  
12  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
13  
trị của di sản, phục vụ cho việc hoạch định  
chính sách bảo tồn và khai thác nguồn lực di  
sản một cách bền vững. Nhằm thực hiện được  
việc lượng giá di sản, các nhà kinh tế đã xây  
dựng khá nhiều phương pháp và công cụ lượng  
giá. Một trong những giải pháp mấu chốt là cần  
phải xây dựng đường cầu cho đối tượng được  
lượng giá và sử dụng thặng dư người tiêu dùng  
(diện tích bên dưới đường cầu) làm thước đo  
giá trị của hàng hóa. Tuy nhiên, hầu hết các  
công trình lượng giá đều tiếp cận đối tượng  
lượng giá dưới giác độ hàng hóa tư.  
Bài viết này trình bày phương pháp mới về  
lượng giá di sản căn cứ vào lập luận rằng di sản  
là một dạng hàng hóa công có mức thuần túy  
khá cao. Kỹ thuật lượng giá được thay đổi căn  
bản bằng cách sử dụng đường cầu cho hàng hóa  
công thay cho đường cầu hàng hóa tư. Ý tưởng  
này được vận dụng cụ thể trong phương pháp  
ZTCM, thực hiện lượng giá đồng thời theo  
đường cầu hàng hóa tư và đường cầu hàng hóa  
công để so sánh kết quả cho khu đô thị cổ Hội  
An, Việt Nam. Đây là cách tiếp cận mới dựa  
trên cơ sở kinh tế học chuẩn tắc, do đó có thể  
còn nhiều vấn đề mang tính tranh luận.  
Di sản cũng được phân loại theo tiêu chí vật  
thể và phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể bao  
gồm các tòa nhà và các địa điểm lịch sử, di tích,  
hiện vật…, có ý nghĩa đối với khảo cổ học, kiến  
trúc, khoa học hoặc công nghệ của một nền văn  
hóa cụ thể. Di sản văn hóa phi vật thể là sản  
phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá  
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan,  
có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu  
giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng  
truyền miệng, lễ hội, ẩm thực, trang phục…  
Như vậy, việc phân loại về hình thức và  
ranh giới các mảng giá trị của di sản chỉ là  
tương đối. Giá trị của di sản văn hóa vật thể bao  
hàm giá trị của những tạo tác vật chất, đồng  
thời bao hàm giá trị văn hóa phi vật thể nội tại.  
Mặt khác, giá trị của di sản văn hóa phi vật thể  
cũng bao hàm các giá trị của những tạo tác vật  
thể có liên quan ở phạm vi nhất định.  
Tổng giá trị kinh tế của giá di sản  
Tổng giá trị kinh tế của di sản bao gồm các  
giá trị sử dụng (Use value) và các giá trị không  
sử dụng (Non-use value) (Hình 1).  
Giá trị sử dụng là giá trị đem lại từ việc tiêu  
dùng các hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm thỏa mãn  
các nhu cầu của con người, trong đó có những  
giá trị từ việc tiêu dùng trực tiếp và những giá  
trị được hưởng từ xa một cách gián tiếp. Giá trị  
sử dụng = Giá trị sử dụng trực tiếp + Giá trị sử  
dụng gián tiếp.  
2. Tổng quan về lượng giá di sản  
2.1. Di sản và tổng giá trị di sản  
Giá trị không sử dụng là giá trị mà mọi  
người gán cho hàng hóa kinh tế ngay cả khi họ  
không bao giờ hoặc sẽ không bao giờ sử dụng  
nó. Giá trị không sử dụng bao gồm: Giá trị tùy  
chọn là giá trị được xác định mà cá nhân sẵn  
sàng trả tiền để duy trì tài sản hoặc tài nguyên  
ngay cả khi có rất ít hoặc không có khả năng cá  
nhân đó sẽ thực sự sử dụng nó trong tương lai;  
Giá trị tồn tại là một loại giá trị kinh tế khá gây  
tranh cãi, phản ánh lợi ích mà mọi người nhận  
được khi biết rằng một nguồn lực hoặc thứ có  
giá trị nào đó vẫn đang tồn tại trước nguy cơ  
tuyệt chủng hoặc biến mất trong tương lai; Giá  
trị lưu truyền là giá trị được đặt ra cho sự sẵn  
sàng của cá nhân để trả cho việc duy trì hoặc  
bảo quản một tài sản hoặc tài nguyên hiện  
không sử dụng, để lưu truyền cho các thế hệ  
tương lai.  
Khái niệm và phân loại di sản  
Theo UNESCO (2018), “Di sản văn hóa là  
giá trị truyền lại của các đồ tạo tác vật chất và  
thuộc tính phi vật thể mà một cộng đồng hoặc  
xã hội được thừa hưởng từ các thế hệ trước,  
được duy trì trong hiện tại và ban tặng lợi ích  
cho các thế hệ tương lai” [1].  
Di sản thế giới được phân loại thành ba  
nhóm: (i) Di sản văn hóa (di tích, di chỉ); (ii) Di  
sản thiên nhiên (khu vực có đặc điểm vật lý,  
sinh học, địa chất, địa lý tự nhiên được phân  
định rõ ràng, có giá trị nổi bật toàn cầu về mặt  
khoa học, bảo tồn hoặc thẩm mỹ); (iii) Di sản  
hỗn hợp (phải thỏa mãn ít nhất là một tiêu chí  
về di sản văn hóa và một tiêu chí về di sản  
thiên nhiên).  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
14  
l
V
Hình 1. Tổng giá trị kinh tế của di sản.  
Nguồn: Plottu, Eric; Plottu, Béatrice (2007) [2].  
Giá trị không sử dụng = Giá trị lựa chọn +  
Giá trị tồn tại + Giá trị lưu truyền.  
(Market-based valuation); (ii) Phương pháp  
lượng giá giá phi thị trường (Non-market  
valuation); (iii) Phương pháp chuyển giao lợi  
ích (Benefit transfer).  
Bài viết này sẽ tập trung vào nhóm Phương  
pháp lượng giá giá phi thị trường, và nhóm này  
lại được phân loại thành hai tiểu nhóm, gồm; (i)  
Phương pháp bộc lộ sự ưa thích (Revealed  
preference method - RPM); và (ii) Phương pháp  
phát biểu sự ưa thích (Stated preference method  
- SPM). Một số đặc trưng quan trọng của các  
phương pháp lượng giá phổ biến này được tóm  
lược ở Bảng 1.  
Trên cơ sở lý thuyết về tổng giá trị kinh tế  
của di sản, việc lượng giá di sản được tiến hành  
với các hoạt động thu thập số liệu, sử dụng các  
công cụ phân tích thích hợp nhằm xác định giá  
trị bằng tiền của di sản, bao gồm giá trị cấu  
thành một cách đầy đủ, đáng tin cậy.  
2.2. Một số phương pháp lượng giá phổ biến  
Các nhà nghiên cứu phân chia các phương  
pháp lượng giá kinh tế thành ba nhóm cơ bản:  
(i) Phương pháp lượng giá giá thị trường  
Bảng 1. Tóm lược các phương pháp lượng giá kinh tế  
Phương  
pháp  
lượng  
giá  
Nhóm  
phương  
pháp  
Dân số  
chịu tác  
động  
Hàng hóa hay dịch vụ rừng  
được lượng giá  
Lợi ích của  
phương pháp  
Hạn chế của  
phương pháp  
Loại giá trị  
Hàng hóa hay dịch vụ được  
trao đổi trên thị trường, chủ  
yếu là tài nguyên (ví dụ gỗ,  
củi, nút bần, lâm sản ngoài gỗ)  
Giá trị sử  
dụng trực tiếp  
và gián tiếp  
Dữ liệu thị  
trường có sẵn  
và mạnh  
Giá thị  
trường  
Người sử  
dụng  
Chỉ áp dụng cho hàng hóa  
và dịch vụ thị trường  
Chủ yếu là dịch vụ sinh thái:  
bảo vệ đất, bảo vệ nước, điều  
hòa khí hậu  
Giá trị sử  
dụng trực tiếp  
và gián tiếp  
Dữ liệu thị  
trường có sẵn  
và mạnh  
Dựa vào  
chi phí  
Người sử  
dụng  
Có thể ước tính quá cao so  
với giá trị thực tế  
Phương  
pháp bộc  
lộ sự ưa  
thích  
Các dịch vụ đóng góp vào thuộc  
tính chất lượng của một hàng hóa Giá trị sử  
thị trường cụ thể, ví dụ chất  
lượng không khí, vẻ đẹp của  
phong cảnh, giảm tiếng ồn  
Định giá  
hưởng  
thụ  
Cần rất nhiều dữ liệu và  
chủ yếu chỉ áp dụng cho dữ  
liệu liên quan đến tài sản  
Người sử  
dụng  
Dựa vào số liệu  
thị trường  
dụng trực tiếp  
và gián tiếp  
Chỉ áp dụng cho giá trị giải  
trí và gặp vấn đề khi tham  
quan nhiều địa điểm trong  
cùng chuyến đi  
Giá trị sử  
dụng trực tiếp  
và gián tiếp  
Chi phí  
du hành  
Tất các các dịch vụ sinh thái  
đóng góp cho hoạt động giải trí  
Người sử  
dụng  
Dựa vào quan  
sát hành vi  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
15  
Có thể lượng  
Giá trị sử  
dụng và  
không sử  
dụng  
Người sử  
dụng và  
không sử  
dụng  
Câu trả lời có thể bị chệch,  
Đánh giá  
ngẫu  
nhiên  
giá tất cả các  
loại giá trị sử  
dụng và không  
sử dụng  
thị trường giả định (không  
quan sát được hành vi), tốn  
kém nguồn lực  
Tất cả các hàng hóa và dịch vụ  
Tất cả các hàng hóa và dịch vụ  
Phương  
pháp  
phát  
biểu sự  
ưa thích  
Có thể lượng  
giá tất cả các  
loại giá trị sử  
dụng và không  
sử dụng  
Giá trị sử  
dụng và  
không sử  
dụng  
Người sử  
dụng và  
không sử  
dụng  
Câu trả lời có thể bị chệch,  
thị trường giả định (không  
quan sát được hành vi), tốn  
kém nguồn lực  
Mô hình  
lựa chọn  
3. Di sản là một dạng hàng hóa công đặc biệt  
3.1. Đặc điểm và phân loại hàng hóa công  
Một hàng hóa công có đặc điểm khác biệt  
với hàng hóa tư như sau:  
Thứ nhất, tính cạnh tranh thấp về phương  
diện tiêu dùng. Khi hàng hóa có tính chất này,  
lợi ích giữa những người tiêu dùng không cạnh  
tranh hay xung đột với nhau. Nếu một người đã  
sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa thì sự kiện này  
không ảnh hưởng đến khả năng hay thực tế tiêu  
dùng hàng hóa của người khác.  
Thứ hai, tính loại trừ thấp về mặt phân phối,  
tức là người sở hữu hàng hóa, ngay cả khi  
muốn, cũng không có khả năng hoặc rất tốn  
kém để loại trừ một người nào đó sử dụng hay  
tiêu dùng hàng hóa ấy một khi đã có trên thị  
trường. Chi phí này còn được gọi là chi phí  
giao dịch.  
Thứ ba, một hàng hóa công được cung cấp  
cho thị trường một lần với toàn bộ chi phí một  
lần ban đầu (không kể chi phí bảo dưỡng).  
Trong trường hợp này, chi phí cận biên của  
hàng hóa công cho việc tăng thêm một người  
tiêu dùng bằng 0 (hoặc không đáng kể). Đường  
chi phí cận biên của hàng hóa công xuất phát từ  
tổng giá ban đầu và chạy song song với trục  
hoành trên đồ thị.  
Có thể chia thế giới hàng hóa (gồm cả dịch  
vụ) ra làm hai loại: hàng hóa tư và hàng hóa  
công. Hàng hóa tư là những hàng hóa mà xét  
theo tính chất tiêu dùng, người ta có thể và cần  
phải sử dụng riêng. Hàng hóa công là những  
hàng hóa mà xét theo tính chất tiêu dùng, người  
ta có thể và cần phải tiêu dùng chung. Những  
hàng hóa có tính loại trừ bằng 0 và có tính cạnh  
tranh bằng 0 thuộc về thái cực hàng hóa công  
thuần túy. Ở thái cực đối lập khi tính loại trừ và  
cạnh tranh đạt mức hoàn toàn thì đó là thái cực  
hàng hóa tư thuần túy. Khoảng giữa hai thái cực  
này là những hàng hóa có tính thuần túy công  
giảm dần, hay ngược lại là tính thuần túy tư  
tăng dần (Hình 2).  
Thứ tư, đối với những hàng hóa công có  
mức thuần túy thấp, đường cung cố định và  
song song với trục tung. Tình trạng tắc nghẽn  
có thể xảy ra khi mức cầu vượt quá khối lượng  
cung tối đa của hàng hóa công. Trong trường  
hợp ấy, cần áp dụng việc thu phí để hạn chế số  
lượng người tiêu dùng ở dưới mức cung tối đa.  
Do vậy, đối với hàng hóa công có thể tắc  
nghẽn, thì hàng hóa đó nên được cung cấp có  
phí ở mức hợp lý để đạt tổng phúc lợi tối ưu.  
Hình 2. Phân biệt hàng hóa công và hàng hóa tư.  
Nguồn: Bùi Đại Dũng (2016) [4].  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
16  
Căn cứ vào các đặc điểm nêu trên của khái  
niệm hàng hóa công và cơ sở lý luận về tổng  
giá trị kinh tế của di sản, có thể thấy di sản là  
một dạng hàng hóa công có thể tắc nghẽn.  
Chúng ta hãy lần lượt đối chiếu vào từng mảng  
giá trị của di sản như sau:  
(i) Giá trị sử dụng trực tiếp của di sản có thể  
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức văn hóa của một  
số đông người trong một thời điểm với tính  
cạnh tranh và loại trừ tương đối thấp. Như vậy,  
riêng mảng giá trị sử dụng trực tiếp của di sản  
là một dạng hàng hóa công có tính thuần túy  
khá cao.  
(ii) Giá trị sử dụng gián tiếp của di sản  
mang lại lợi ích cho cả những người chưa bao  
giờ sử dụng hoặc sẽ không bao giờ sử dụng nó.  
Các giá trị lựa chọn, giá trị tồn tại, giá trị lưu  
truyền của di sản có tính cạnh tranh và tính loại  
trừ gần bằng 0. Như vậy, mảng giá trị sử dụng  
gián tiếp của di sản là một dạng hàng hóa công  
có tính thuần túy rất cao.  
Hình 3. Đường cầu hàng hóa tư.  
Nguồn: Bùi Đại Dũng (2018) [5].  
Tóm lại, di sản là một dạng hàng hóa công  
đặc biệt, trong đó phần giá trị sử dụng gián tiếp là  
dạng hàng hóa công thuần túy; phần giá trị sử  
dụng trực tiếp là dạng hàng hóa công ít thuần túy  
hơn, với đặc điểm có thể gây tắc nghẽn. Mảng giá  
trị sử dụng trực tiếp là yếu tố cần tính đến trong  
việc tính toán quy mô khai thác tối ưu.  
3.2. Đường cầu của hàng hóa công di sản  
Hình 4. Đường cầu hàng hóa công.  
Nguồn: Bùi Đại Dũng (2018) [5].  
Đường cầu hàng hóa công hoàn toàn khác  
biệt với hàng hóa tư. Trước hết, cần nhắc lại  
rằng hàng hóa tư được cung và cầu hoàn toàn tự  
do với số lượng không hạn chế.  
Trong trường hợp này, quy tắc xác định  
đường cầu thị trường của hàng hóa tư là cộng  
dồn theo chiều ngang tổng số lượng hàng hóa  
có nhu cầu ở từng mức giá: P = P1 = P2;  
Q = Q1 + Q2.  
Trái lại, hàng hóa công được cung cấp với  
số lượng hạn chế cho toàn xã hội. Giá của hàng  
hóa công là tổng giá cộng dồn cho mọi mức giá  
mà mỗi cá nhân trong xã hội sẵn sàng chi trả.  
Khác với trường hợp trên, quy tắc xác định  
đường cầu thị trường của hàng hóa công là  
cộng dồn theo chiều dọc tổng giá mà mọi cá  
nhân chi trả cho một khối lượng hàng hóa công  
cố định: P = P1 + P2; Q = Q1 = Q2.  
Vì di sản là một hàng hóa công không thuần  
túy, có số lượng cung hữu hạn trong một thời  
điểm, cho nên khả năng tắc nghẽn có thể xảy ra  
khi tổng cung của hàng hóa công di sản là Q1.  
Mức phí cần thu để tránh tắc nghẽn là OF.  
Không xảy ra tắc nghẽn nếu tổng cung của hàng  
hóa công di sản là Q2 (Hình 5).  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
17  
liệu thống kê. ZTCM được thực hiện theo các  
bước sau:  
i. Xác định khu vực xung quanh điểm/khu  
vực thăm quan cần thực hiện TCM theo khoảng  
cách dưới hình thức là các đường tròn đồng tâm  
hoặc khu vực phân chia theo địa giới hành  
chính/địa lý. Khoảng cách các khu vực ngầm  
định chi phí cho khoảng cách đi lại càng xa thì  
chi phí càng cao.  
ii. Thu thập thông tin về số lượng khách  
truy cập từ mỗi khu vực thực hiện trong năm  
đến địa điểm thăm quan và một số dữ liệu khác  
như: thu nhập, giới tính, tuổi, học vấn...  
iii. Tính tỷ lệ số lượt người đến du lịch trên  
1.000 dân trong mỗi khu vực.  
Hình 5. Hàng hóa công di sản và khả năng  
tắc nghẽn.  
Nguồn: Bùi Đại Dũng (2018) [5].  
iv. Tính chi phí trung bình cho mỗi chuyến  
đi đến địa điểm du lịch cho từng khu vực, gồm  
vé phương tiện của chuyến đi (khứ hồi), chi phí  
thời gian...  
4. Lượng giá di sản với cách tiếp cận là hàng  
hóa công  
v. Xác định hệ số lợi ích cận biên bằng cách  
hồi quy số lượt người du lịch/1.000 người từ  
mỗi khu vực với chi phí trung bình từ các  
khu vực.  
vi. Xây dựng hàm cầu từ hệ số lợi ích cận  
biên với mức phí du lịch (giả định), xuất phát từ  
tổng số du khách trong năm nghiên cứu tương  
đương với mức phí bằng 0.  
4.1. Giới thiệu phương pháp lượng giá chi phí  
du lịch  
Phương pháp lượng giá chi phí du lịch  
(Travel cost method - TCM) được nhà kinh tế  
Harold Hotelling nêu ra những ý tưởng cơ bản  
từ năm 1947 và sau đó được hai nhà kinh tế  
Jack Clawson và Marion Knetsch tiếp tục cụ  
thể hóa năm 1966. Đến nay, TCM được áp  
dụng rộng rãi, đặc biệt để đánh giá các giá trị sử  
dụng trực tiếp và gián tiếp đối với các cảnh  
quan, khu vui chơi giải trí, từ đó xác định giá trị  
cho những cảnh quan này. Giá trị một khu vực  
du lịch được xác định dựa trên lập luận rằng  
một cá nhân sẽ bỏ ra phí tổn tương đương với  
mức giá trị tại địa điểm họ đến thăm quan, nghỉ  
dưỡng. Giá trị khu vực đó được biểu thị bằng:  
giá vé vào thăm quan, chi phí đi và về, chi phí  
cơ hội của thời gian đi, chi phí cơ hội của thời  
gian lưu lại điểm thăm quan…  
vii. Tính tổng giá trị của địa điểm du lịch là  
thặng dư người tiêu dùng từ đường cầu vừa  
được xác lập.  
4.2. Hạn chế của phương pháp lượng giá chi  
phí du lịch theo khu vực  
Các hạn chế của ZTCM đã được nhiều nhà  
nghiên cứu chỉ ra:  
1. Đối với những người thích đi du lịch thì  
thời gian đi không phải là chi phí mà là lợi ích.  
Khi đó phải trừ chi phí thời gian ra khỏi chi phí  
du lịch, như thế giá trị khu giải trí sẽ được đánh  
giá cao lên.  
2. Một hành trình cho nhiều nơi thăm quan:  
nếu một cá nhân thăm quan một vài điểm trong  
cùng một ngày nhưng chỉ được phỏng vấn theo  
phương pháp ZTCM tại một điểm thì các nhà  
phân tích sẽ phân bổ chi phí du lịch của cá nhân  
này nhưng không chính xác.  
TCM được cụ thể hóa theo ba phương pháp  
tiếp cận là: TCM khu vực (ZTCM), TCM cá  
nhân (ITCM), và TCM tiện ích ngẫu nhiên  
(RUTCM). Sau đây, bài viết tập trung giới thiệu  
về ZTCM và ITCM.  
Phương pháp ZTCM có cách tiếp cận đơn,  
chủ yếu sử dụng dữ liệu thứ cấp, với một số dữ  
liệu đơn giản thu thập từ du khách và các dữ  
3. Các du khách không tốn chi phí: phương  
pháp ZTCM bỏ qua những khách thăm quan ở  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
18  
rất gần khu giải trí, họ có thể đi bộ đến đó  
tại những địa điểm du lịch mới được phát hiện  
cũng làm nhiễu nguyên lý tiếp cận chi phí du  
lịch theo khoảng cách.  
nhưng họ có thể đánh giá cao về khu giải trí.  
4. Giả định của ZTCM là quần thể trong  
khu vực là đồng nhất. Thực ra, tính đa dạng về  
sở thích và khả năng chi trả của các cá nhân  
trong một khu vực không kém gì sự đa dạng ở  
cấp độ toàn cầu.  
Ngoài ra, thực tiễn nghiên cứu áp dụng  
ZTCM còn cho thấy một số hạn chế cơ bản sau:  
5. Ý tưởng cơ bản của ZTCM chia khu vực  
du khách (theo khoảng cách từ nơi xuất phát  
của khách du lịch đến địa điểm du lịch) ngầm  
định rằng khoảng cách càng xa thì mức chi phí  
du lịch càng cao. Thực tiễn cho thấy ý tưởng  
này không hợp lý vì mức chi thực tế của khách  
du lịch từ cùng một khu vực rất khác biệt, đồng  
thời mức trung bình của du khách ở khu vực xa  
hơn có khi thấp hơn mức trung bình của du  
khách ở khu vực gần. Thực trạng này làm cho  
việc thiết lập đường cầu trở nên khó khả thi.  
6. ZTCM chưa tính đến sự khác biệt trong  
sức mua của các nhóm khách từ các quốc gia  
khác nhau. Nguyên lý kinh tế học chỉ ra rằng 1  
đôla của một người có thu nhập thấp có giá trị  
cao hơn 1 đôla của một người ở nước giàu. Chi  
tiêu du lịch cấp độ quốc tế, nếu không giải  
quyết được vấn đề mang tính nguyên tắc này thì  
rất có thể kết quả tính toán có sai số lớn. Vì thế,  
giả định này không đủ thuyết phục cho cơ sở  
chia du khách thành các khu vực. Tất cả mọi du  
khách cần phải đối mặt với cùng một cơ sở tính  
chi phí du lịch.  
Hình 6. Thiết lập đường cầu ZTCM.  
Nguồn: Hướng dẫn ZTCM của Đại học  
co.uk/Home.html  
Hạn chế lớn nữa của ZTCM là chấp nhận số  
lượng du khách thực tiễn trong một thời điểm  
hoặc một giai đoạn ngắn, không có cơ sở phản  
biện về thực trạng hoặc nguy cơ tắc nghẽn,  
hoặc cơ sở cho biết quy mô du khách tối ưu cho  
một khu vực du lịch.  
5. Áp dụng lượng giá với cách tiếp cận di sản  
là hàng hóa công  
Khách du lịch có thể đến nhiều địa điểm du  
lịch trong một chuyến đi. Tính đa dạng của số  
điểm đến, thời gian lưu trú tại mỗi điểm là yếu  
tố gây nhiễu làm cho việc xác định chi phí của  
khách tại một điểm du lịch trở nên rất thiếu  
chính xác.  
Khá nhiều người đưa ra tiêu chí chọn địa  
điểm du lịch là không trùng với địa điểm mà họ  
đã từng đến bởi thời gian và ngân sách dành  
cho du lịch có hạn, trong khi nhu cầu mở rộng  
hiểu biết đến khu vực mới là ưu tiên khá cao.  
Điều này càng đáng quan tâm trong bối cảnh  
toàn cầu, khi chi phí cho chuyến đi xa hay  
tương đối xa không có sự cách biệt lớn vì thời  
điểm đăng ký vé làm cho chi phí đi lại bị nhiễu  
nghiêm trọng. Hơn nữa, chi phí ăn ở ít tốn kém  
5.1. Lượng giá theo phương pháp lượng giá chi  
phí du lịch theo khu vực truyền thống làm  
đối chứng  
Với vị thế là một di sản thế giới, du khách  
đến Hội An được chia thành 6 khu vực, gồm:  
Khu vực 0: trong nước; Khu vực 1: Châu Á;  
Khu vực 0: Châu Âu; Khu vực 3: Châu Đại  
Dương; Khu vực 4: Bắc Mỹ; Khu vực 5: Các  
khu vực còn lại.  
Tỷ lệ số lượt người đến du lịch trên 1000  
dân trong mỗi khu vực và chi phí trung bình  
cho mỗi chuyến đi đến địa điểm du lịch cho  
từng khu vực, gồm vé phương tiện của chuyến  
đi (khứ hồi), chi phí thời gian... đã được thực  
hiện với kết quả như sau:  
d
;
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
19  
Bảng 2. Phân chia khu vực du khách đến Hội An  
Khu  
vc số  
Tên khu vc Số lượt khách Số lượt  
Sngày Chi tiêu/  
Chi phí thi  
gian /ngày  
(USD)  
5,38  
69,42  
năm 2018  
khách/  
1.000 dân  
2,65  
0,12  
0,68  
Hi An  
ngày  
(USD)  
43,57  
225,40  
285,21  
405,50  
0
1
2
3
Vit Nam  
Châu Á  
Châu Âu  
Châu Đại  
Dương  
253.311  
554.811  
500.013  
142.427  
1,8  
2,1  
2,1  
2,1  
131,10  
130,03  
3,72  
4
5
Bắc Mỹ  
Các khu vực  
còn lại  
104.465  
161.451  
0,18  
0,09  
2,1  
2,1  
345,47  
285,21  
145,07  
116,91  
Nguồn: Chi cục Thống , Thành phố Hội An (Niên giám thống kê Hội An 1995-2019).  
Việc thu thập thông tin về số lượng khách  
từ mỗi khu vực đến địa điểm thăm quan và một  
số dữ liệu khác như: thu nhập, giới tính, tuổi,  
học vấn... nhằm xác định hệ số lợi ích cận biên  
bằng cách hồi quy số lượt chuyến thăm/1.000  
người từ mỗi khu vực với chi phí trung bình từ  
các khu vực, ta có kết quả sau:  
Điều đó cho phép kết luận ZTCM không  
phù hợp để thực hiện lượng giá cho một di sản  
thế giới vì hành vi của du khách từ các khu vực  
là rất không đồng nhất. Vì các nhiễu không  
đồng nhất này nên không ước tính được hệ số  
lợi ích cận biên của du khách để xây dựng  
hàm cầu.  
Trong trường hợp quy mô du khách và đặc  
điểm của khu vực du lịch thỏa mãn giả định về  
tính đồng nhất của hành vi du khách thì việc  
lượng giá giá trị khu vực du lịch theo cách tiếp  
cận như một hàng hóa tư vẫn là hạn chế lớn vì  
các lý do sau:  
Thứ nhất, giả định số lượng du khách trong  
năm khảo sát có mức chi phí bằng 0, rồi tăng  
mức phí lên dần để xác định lượng du khách  
tương đương theo hàm cầu là cách làm thiếu  
thuyết phục. Trong thực tiễn, việc giả định mức  
chi phí du lịch bằng 0 là khó chấp nhận vì dù  
cho khoảng cách giữa nơi cư trú và khu du lịch  
nhỏ đến đâu thì vẫn cần một mức chi phí nhất  
định cho việc đi lại. Hơn nữa, chi phí cơ hội của  
thời gian du lịch là khoản chi phí mà không du  
khách nào tránh khỏi.  
Hình 7. Hồi quy tìm lợi ích cận biên của du khách  
theo khu vực.  
Nguồn: Tính từ số liệu Chi cục Thống kê, Thành phố  
Hội An (Niên giám thống kê Hội An 1995-2019).  
Thứ hai, việc cộng dồn số lượng các nhóm  
khách theo chiều ngang phản ánh sai lệch bản  
chất nhu cầu của du khách với khu vực du lịch  
mà họ đến vì mối quan hệ này không phải cung  
cầu tự do của thị trường hàng hóa tư, mà là mối  
quan hệ giữa khối lượng cầu vô hạn đối với một  
hàng hóa công, có mức cung hữu hạn.  
Theo lý thuyết và giả định tính đồng nhất  
của hành vi du khách thì chi phí du lịch càng  
cao, lượng cầu càng giảm và ngược lại. Tuy  
nhiên, thực tiễn ở đây không bộc lộ quy luật  
này. Nhóm nghiên cứu thử tích hợp số du khách  
và chi phí du lịch giữa Châu Á với Châu Đại  
Dương (vì có khoảng cách trung bình tương  
đồng) nhưng kết quả không khả quan hơn.  
Thứ ba, việc lượng giá di sản theo cách tiếp  
cận là một hàng hóa tư không có cơ sở thuyết  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
20  
(iii) Bỏ qua việc chia nhóm du khách theo  
phục và không đem thông điệp chính xác cho  
các nhà quản lý. Việc hoạch định chính sách về  
quản lý di sản cần được hiểu với tư cách là một  
nguồn lực hữu hạn, nhạy cảm với tác động tổn  
hại khi bị khai thác mang tính lạm dụng, khác  
biệt hoàn toàn với một hàng hóa tư với phạm vi  
cung cầu tự do.  
khoảng cách đến địa điểm du lịch (ZTCM). Chi  
phí đi lại theo khoảng cách được tính vào tổng  
chi phí du lịch.  
(iv) Hồi quy tìm hệ số lợi ích cận biên (MB)  
theo số liệu cá nhân, là quan hệ giữa tổng chi  
tiêu/ngày của mỗi người với số người tương  
ứng của mức chi theo số liệu điều tra.  
(v) Cộng dồn thặng dư người tiêu dùng (CS)  
của các nhóm theo chiều dọc; Tổng giá trị địa điểm  
du lịch sẽ bằng tổng giá trị trực tiếp với giá trị  
gián tiếp.  
5.2. Điều chỉnh phương pháp lượng giá chi phí  
du lịch theo khu vực truyền thống để khắc phục  
nhiễu chi phí không tương đồng với  
khoảng cách  
Kết quả thực hiện ZTCM đã điều chỉnh  
như sau:  
Bước 1: Xác định khoảng cách từ nơi xuất  
phát của du khách đến Hội An.  
Với thực tiễn thống kê về du khách tại Việt  
Nam nói chung và ở Hội An nói riêng, việc tiếp  
cận số lượng du khách theo quốc tịch là thuận  
lợi. Hơn nữa, cùng quốc tịch thì tính đồng nhất  
trong nhóm khá cao và cách phân loại này giúp  
giảm bớt nhiễu trong quá trình tính toán, lượng  
giá. Việc thu thập số liệu du khách, phân loại và  
tính toán khoảng cách, chi phí vé, thời gian  
chuyến bay cho kết quả như sau:  
Để phù hợp với đối tượng lượng giá là một  
di sản thế giới, khắc phục những yếu điểm nêu  
trên, phương pháp ZTCM cần có sự điều chỉnh  
như sau:  
(i) Đồng nhất sức mua của du khách giữa  
các quốc gia bằng cách chuyển đổi giá trị  
chuyến đi hệ số sức mua ngang giá chung  
(PPP). Lưu ý khi đã tính theo hệ số PPP thì tổng  
giá trị được lượng giá sẽ là giá USD thời điểm  
lượng giá.  
(ii) Bỏ qua số chuyến đi của cá nhân mỗi du  
khách (ITCM).  
Bảng 3. Khoảng cách, giá vé và thời gian bay  
TT  
1
… đến Hội An  
Hà Nội/TP.HCM  
Australia  
Áo  
Khoảng cách (km) Giá vé máy bay (USD)  
Thời gian bay (giờ)  
4,00  
1.000  
7.747  
8.257  
8.993  
10.911  
2.321  
8.450  
7.435  
9.212  
8.342  
9.368  
3.440  
7.060  
8.746  
3.668  
160  
2
1.240  
1.321  
1.439  
1.746  
371  
17,49  
3
18,51  
4
Bỉ  
19,99  
5
Canada  
Trung Quốc  
Đan Mạch  
Phần Lan  
Pháp  
23,82  
6
6,64  
7
1.352  
1.190  
1.474  
1.335  
1.499  
550  
18,90  
8
16,87  
9
20,42  
10  
11  
12  
13  
14  
15  
Đức  
18,68  
Iceland  
20,74  
Indonesia  
Israel  
8,88  
1.130  
1.399  
587  
16,12  
Ý
19,49  
Nhật Bản  
9,34  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
21  
16  
17  
18  
19  
20  
21  
22  
23  
24  
25  
26  
27  
28  
29  
Hàn Quốc  
Hà Lan  
2.739  
8.895  
9.891  
8.371  
10.424  
6.741  
2.196  
10.057  
7.894  
8.868  
1.665  
989  
438  
7,48  
1.423  
1.583  
1.339  
1.668  
1.079  
351  
19,79  
21,78  
18,74  
22,85  
15,48  
6,39  
New Zealand  
Na Uy  
Bồ Đào Nha  
Nga  
Singapore  
Tây Ba Nha  
Thụy Điển  
Thụy Sĩ  
Đài Loan  
Thái Lan  
Anh  
1.609  
1.263  
1.419  
266  
22,11  
17,79  
19,74  
5,33  
158  
3,98  
9.250  
13.169  
1.480  
2.107  
20,50  
28,34  
Mỹ  
Nguồn: Tính từ số liệu thô của https://onemileatatime.com/value-miles-points/.  
Chi phí cơ hội thời gian trong nghiên cứu này  
chỉ tính thời gian dành cho quá trình đi lại mà  
không tính thời gian lưu trú tại Hội An của du  
khách vì số ngày lưu trú của các nhóm khách quốc  
tế không có sự khác biệt đáng kể, trên dưới 2,1  
ngày ± 0,2. Chi phí cơ hội thời gian được tính theo  
giờ, tương đương mức thu nhập lương theo giờ  
bằng 1/10 thu nhập ngày lao động. PPP được tính  
toán từ số liệu gốc của WDI 2018.  
Bước 3: Xác định chi phí du lịch cho từng  
nhóm du khách phân theo quốc tịch, thiết lập  
đường cầu thể hiện mối quan hệ giữa mức chi  
tiêu và số lượng du khách tương ứng (Bảng 5,  
Hình 8).  
Bước 2: Tính toán chi phí cơ hội thời gian  
và hệ số sức mua.  
Việc tổng hợp nhu cầu khác nhau từ các  
nhóm du khách đến từ nhiều quốc gia trên thế  
giới đặt ra yêu cầu loại trừ hoặc hạn chế nhiễu  
gây ra bởi sự khác biệt về mức sống giữa các  
quốc gia trên thế giới. Sau khi thử nghiệm một  
số mô hình tính toán, hệ số sức mua (PPP ratio)  
được áp dụng để hạn chế tình trạng nêu trên. Lý  
do của giải pháp này là thặng dư lợi ích người  
tiêu dùng được phản ánh chính xác hơn bởi  
mức chi tiêu PPP mà không chính xác với mức  
chi tiêu bằng tiền thực tế.  
Bảng 4. Chi phí cơ hội thời gian  
TT  
1
… đến Hội An  
Hà Nội/TP. HCM  
Australia  
Áo  
Thu nhập/ngày (USD)  
PPP  
3,78  
0,91  
1,12  
1,09  
0,93  
2,35  
0,89  
1,00  
Thu nhập/giờ  
0,54  
5,38  
2
155,94  
137,67  
127,90  
140,71  
21,25  
15,59  
3
13,77  
4
Bỉ  
12,79  
5
Canada  
14,07  
6
Trung Quốc  
Đan Mạch  
Phần Lan  
2,12  
7
172,30  
133,10  
17,23  
8
13,31  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
22  
9
Pháp  
119,63  
130,14  
142,75  
11,74  
1,05  
1,14  
1,11  
3,05  
1,17  
11,96  
13,01  
14,27  
1,17  
10  
11  
12  
13  
Đức  
Iceland  
Indonesia  
Israel  
95,31  
9,53  
14  
15  
Ý
96,96  
1,19  
0,89  
9,70  
Nhật Bản  
134,03  
13,40  
16  
17  
18  
19  
20  
21  
22  
23  
24  
25  
26  
27  
28  
29  
Hàn Quốc  
Hà Lan  
73,32  
1,51  
1,03  
1,10  
0,69  
1,44  
2,31  
1,74  
1,23  
0,93  
0,87  
1,51  
2,99  
1,08  
1,15  
7,33  
150,80  
104,11  
252,39  
65,03  
15,08  
10,41  
25,24  
6,50  
New Zealand  
Na Uy  
Bồ Đào Nha  
Nga  
32,13  
3,21  
Singapore  
Tây Ba Nha  
Thụy Điển  
Thụy Sĩ  
Đài Loan  
Thái Lan  
Anh  
159,58  
90,81  
15,96  
9,08  
156,80  
215,93  
68,56  
15,68  
21,59  
6,86  
17,43  
1,74  
117,77  
149,43  
11,78  
14,94  
Mỹ  
Nguồn: Tính từ số liệu thô của WDI 2018.  
Bảng 5. Số lượng du khách và tổng chi phí du lịch  
Nhóm  
du khách  
Mỹ  
Số du khách/  
quốc gia  
73.212  
Chi phí du lịch, Chi phí du lịch,  
TT  
USD thực tế  
PPP USD  
1
2.530  
2.906  
2
Nga  
4.512  
1.128  
1.816  
1.810  
1.809  
1.795  
2.081  
1.588  
1.721  
1.694  
1.718  
1.578  
1.722  
2.612  
2.607  
2.231  
1.986  
1.984  
1.940  
1.889  
1.852  
1.843  
1.805  
1.805  
1.776  
3
Bồ Đào Nha  
Tây Ban Nha  
New Zealand  
Ai Len  
Canada  
Ý
12.377  
45.429  
23.391  
17.305  
31.253  
19.738  
119.026  
13.087  
82.177  
85.694  
36.621  
4
5
6
7
8
9
Anh  
10  
11  
12  
13  
Bỉ  
Pháp  
Đức  
Hà Lan  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
23  
14  
15  
16  
17  
18  
19  
20  
21  
22  
23  
24  
25  
26  
27  
28  
29  
Áo  
6.810  
1.576  
561  
1.764  
1.709  
1.614  
1.504  
1.497  
1.431  
1.416  
1.370  
1.254  
905  
Indonesia  
Thụy Sỹ  
Israel  
6.668  
10.105  
15.054  
14.796  
9.034  
1.845  
1.283  
1.678  
1.542  
1.414  
1.512  
1.812  
385  
Đan Mạch  
Thụy Điển  
Phần Lan  
Australia  
Na Uy  
3.296  
119.036  
4.952  
Trung Quốc  
Singapore  
Hàn Quốc  
Nhật Bản  
Việt Nam  
Thái Lan  
Đài Loan  
78.166  
12.641  
386.080  
44.187  
253.311  
15.810  
11.259  
453  
789  
493  
746  
712  
631  
162  
614  
165  
494  
303  
458  
Nguồn: Tính từ số liệu Bảng 3 Bảng 4.  
Theo giá thực chi phí du lịch, ta có đường cầu:  
Với hàm hồi quy y = 2.401,8 - 0,0014 * x,  
Số lượng du khách y đạt tối đa = 1.715.571  
người, khi x = 0 (Hình 9). Con số này gần sát  
với tổng du khách thực tế đến Hội An năm  
2018 là 1.716.478 người. Đường cầu này phản  
ánh thực tiễn tốt hơn khi sử dụng hệ số sức mua  
ngang giá PPP nêu trên.  
Kết quả này dẫn đến khuyến nghị rằng việc  
sử dụng hệ số PPP để xây dựng đường cầu  
trong trường hợp du khách đến từ nhiều quốc  
gia và đồng tiền mỗi quốc gia có sức mua khác  
biệt, cho phép đưa ra kết quả đáng tin cậy hơn.  
Hình 8. Đường cầu du khách tại di sản Hội An theo  
giá thực chi phí du lịch.  
Nguồn: Nhóm tác giả.  
Theo hàm hồi quy y = 2215 0,0014 * x,  
Số lượng du khách y đạt tối đa = 1.476.666  
người, khi x = 0 (Hình 8). Thực tế tổng du  
khách đến Hội An năm 2018 là 1.716.478  
người. Đường cầu theo giá chi phí thực này  
chưa phản ánh sát số liệu thực tiễn.  
Hình 9. Đường cầu du khách tại di sản Hội An theo  
giá PPP chi phí du lịch.  
Theo giá PPP chi phí du lịch, ta có đường  
cầu: y = 2.401,8 0,0014 * x (Hình 9).  
Nguồn: Nhóm tác giả.  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
24  
Nếu tiếp tục lượng giá giá trị Hội An theo  
Điểm A: y = 0; x = 2.143.143; Điểm B:  
y = 353,45; x = 1.638.214  
Điểm C’’: y = 1.176,44; x = 462,514; Điểm  
C’: y = 1.645,98; x = 462,514  
Điểm C: y = 2.822,42; x = 462,514; Điểm  
D: y = 7.121,3; x = 0  
Tng giá trthặng dư người tiêu dùng là  
diện tích dưới đường cu tng hp ABCD là  
4.255.724.958 USD; hay nói cách khác, giá trị  
khu vực đô thị cHội An được lượng giá bng  
ZTCM theo cách tiếp cn mi là 4.255.724.958  
USD (PPP thời điểm năm 2018).  
phương pháp truyền thống, ta có điểm đồ thị cắt  
trục hoành tại x = 1.715.571; và cắt trục tung tại  
y = 2.401,8. Tổng giá trị thặng dư người tiêu  
dùng là 2.060.229.729; hay nói cách khác, giá  
trị khu vực đô thị cổ Hội An được lượng giá  
bằng ZTCM theo cách tiếp cận truyền thống là  
2.060.229.729 USD (thời điểm năm 2018).  
5.3. Thiết lập đường cầu cho Hội An với tư  
cách là một hàng hóa công  
Nhìn vào kết quả nêu trên, có thể thấy  
đường cầu được thiết lập với cách tiếp cận coi  
đối tượng được lượng giá là một hàng hóa tư,  
nghĩa là số lượng du khách được cộng dồn theo  
chiều ngang với cùng mức chi tiêu giống nhau.  
Vì bản chất di sản không thể là một hàng hóa  
tư, cho nên cách lượng giá này có thể làm sai  
lệch kết quả đáng kể.  
Để khắc phục nhược điểm đó, quá trình tính  
toán sau vận dụng cách tiếp cận xây dựng  
đường cầu cho một hàng hóa công:  
(i) Tiếp cận lượng giá một di sản với tư  
cách là một dạng hàng hóa công  
Từ số liệu Bảng 5, có thể thấy 3 nhóm du  
khách với hệ số đường cầu khác biệt. Cần mô  
phỏng đường cầu của 3 nhóm này theo mô hình  
tổng hợp đường cầu của một hàng hóa công,  
nghĩa là được cộng dồn theo chiều dọc như sau:  
Nhóm 1: Mức chi phí du lịch từ 2.906 đến  
1.940. Hàm hồi quy nhóm 1 được thiết lập:  
y = 3.237,6 0,007 * x  
Nhóm 2: Mức chi phí du lịch từ 1.889 đến  
1.254. Hàm hồi quy nhóm 2 được thiết lập:  
y = 2.293,5 0,0014 * x  
Nhóm 3: Mức chi phí du lịch từ 905 đến 0.  
Hàm hồi quy nhóm 3 được thiết lập: y = 1.500,2  
0,0007 * x  
Hình 10. Tng hợp đường cu ZTCM  
theo cách tiếp cn hàng hóa công.  
Nguồn: Nhóm tác giả.  
6. Kết lun  
Phương pháp lượng giá ZTCM cần được  
xem xét điều chỉnh khi vận dụng lượng giá đối  
với những đối tượng được lượng giá không phù  
hợp với giả định du khách trong khu vực được  
chi có tính đồng nhất, đặc biệt khi đối tượng  
lượng giá là di sản thế giới với nhiều nhóm du  
khách đến từ nhiều khu vực khác biệt về  
khoảng cách, mức sống, thông tin...  
Đặc trưng số liệu thống kê tại Việt Nam cho  
phép tiến hành lượng giá ZTCM theo nhóm du  
khách phân loại theo quốc tịch. Để khắc phục  
nhiễu từ sự khác biệt mức sống, nghiên cứu này  
đề xuất việc sử dụng hệ số PPP để tăng độ  
chính xác khi thiết lập đường cầu.  
Hàm hồi quy tổng hợp của cả 3 nhóm được  
thiết lập bằng cách cộng theo chiều dọc mức giá  
sẵn sàng chi trả cho việc du lịch Hội An như  
sau (Hình 10):  
B.D. Dung et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 11-25  
25  
Việc lượng giá di sản cần mô phỏng đường  
cầu dưới dạng tổng hợp của các nhóm có khác  
biệt lớn về hệ số đường cầu. Đối với Hội An, du  
khách được chia làm 3 nhóm với hệ số đường  
cầu khác biệt. Đường cầu tổng hợp được cộng  
dồn từ 3 đường cầu của nhóm theo chiều dọc.  
Kết quả vận dụng hệ số PPP và cách lượng  
giá trên cơ sở thiết lập đường cầu hàng hóa  
công cho thấy đường cầu được xây dựng phản  
ánh sát thực hơn số lượng và phân bố các nhóm  
nhu cầu. Trong nghiên cứu này, hệ số PPP bổ  
sung thêm 16,18% so với mức ước lượng thấp  
hơn thực tiễn của đường cầu giá thực.  
Lời cảm ơn  
Nhóm tác giả chân thành cảm ơn sự phối  
hợp giúp đỡ và tài trợ của Trung tâm Hỗ trợ  
Nghiên cứu Châu Á (ARC) cho việc thực hiện  
đề tài: “Lượng giá di sản văn hóa vật thể - Lý  
thuyết và nghiên cứu thực tế tại Phố cổ Hội An”  
làm tiền đề của bài viết này.  
Tài liệu tham khảo  
ble-cultural-heritage/, Truy cập ngày 8/6/2018).  
[2] Plottu, Eric; Plottu, Béatrice, The concept of  
Giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp của  
Hội An được phản ánh qua phương pháp  
ZTCM với cách tiếp cận đường cầu hàng hóa  
công là 4.255.724.958 USD (PPP thời điểm  
năm 2018), tăng 206,6% so với giá trị lượng giá  
bởi đường cầu theo cách tiếp cận hàng hóa tư.  
Trong những nghiên sau, phương pháp tiếp  
cận hàng hóa công sẽ được nhóm nghiên cứu  
mở rộng áp dụng cho ITCM và CVM.  
Total Economic Value of environment:  
reconsideration within a hierarchical rationality,  
Ecological Economics 61 (1) (2007) 52-61.  
A
FactSheets_methods_EN.pdf/, 2014, Truy cập  
ngày 15/7/2018).  
[4] Bùi Đại Dũng, Kinh tế học của khu vực công,  
NXB Chính trị Quốc gia, 2016.  
[5] Bùi Đại Dũng, Giáo trình Kinh tế Công cộng,  
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2018.  
P
p
pdf 15 trang yennguyen 08/04/2022 5180
Bạn đang xem tài liệu "Valuing heritage as a public good initial application to zonal travel cost method in Hoi An, Vietnam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvaluing_heritage_as_a_public_good_initial_application_to_zon.pdf