Tiểu luận Triết học - Chủ đề số 6: Nguyên tắc lịch sử - Cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC  
Chủ đề s6: “Nguyên tắc lịch s- cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai  
cấp ở nước ta hiện nay”  
PHẦN MỞ ĐẦU:  
Triết học với em là một môn học khó, đòi hỏi phải nhìn nhận vấn đề một  
cách toàn diện. Chính vì vậy, bên cạnh việc tham khảo các giáo trình Triết học, bài  
báo của các nhà khoa học… em đã cố gắng thể hiện tính đặc thù trong việc tiếp cận  
vấn đề dưới góc độ triết học, trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư  
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy  
nhiên, vì là một môn khoa học cơ sở, với lượng kiến thức rộng, bản thân em với độ  
tuổi còn nhỏ đang trong giai đoạn đầu học hỏi việc nhìn nhận vấn đề một cách  
bao hàm, toàn diện; nên khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Mong quý thầy  
cô cho em xin ý kiến góp ý để em có thể học tập tốt hơn trong những môn học tiếp  
theo.  
Chủ đề em được nhận để viết Tiểu luận hôm nay, đó là: “Nguyên tắc lịch sử  
- cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay”  
Với chủ đnày, em trình bày thành 3 phần, với nội dung cụ thể như sau:  
I.  
CƠ SỞ LUẬN CHUNG:  
1. Cơ sở luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể  
2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể  
2.1. Định nghĩa, nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể  
2.2. Yêu cầu của nguyên tắc lịch sử - cụ thể  
3. Giai cấp đấu tranh giai cấp:  
3.1. Giai cấp  
3.1.1. Định nghĩa  
3.1.2. Nguồn gốc của giai cấp:  
3.1.3. Đặc trưng của giai cấp:  
3.2. Đấu tranh giai cấp  
3.2.1. Định nghĩa  
3.2.2. Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp:  
3.2.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển hội  
3.2.4. Các hình thức đấu tranh giai cấp:  
NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ TRONG VIỆC THỰC HIỆN  
ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:  
II.  
1. Đặc thù của vấn đgiai cấp ở Việt Nam  
2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp  
ở nước ta hiện nay:  
III. NHẬN THỨC RÚT RA TỪ NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ  
TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA  
PHẦN NỘI DUNG  
I.  
CƠ SỞ LUẬN CHUNG:  
1. Cơ sở luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể:  
Cơ sở luận của nguyên tắc lịch s- cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ  
biến, nguyên lý về sự phát triển và quan điểm tính cụ thể của chân lý của phép biện  
chứng nhận thức luận duy vật.  
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có quá trình ra đời,  
phát sinh và phát triển, hay nói cách khác đều lịch sử của mình. Đồng thời, mỗi  
sự vật, hiện tượng bao giờ cũng tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể  
nhất định. Như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan đều có quá  
trình lịch sử - cụ thể nhất định của nó, đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với  
những cái khác.  
Liên hệ - theo quan điểm biện chứng – là khái niệm dùng để chỉ sự phụ  
thuộc, ràng buộc, quy định lẫn nhau và đồng thời sự tác động qua lại lẫn nhau  
giữa các mặt, các yếu tố, thuộc tính, … trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các  
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nói đến liên hệ ở đây không những là  
nói đến liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình, mà còn nói đến liên hệ giữa  
các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, quá trình. Cái được gọi là liên hệ theo  
nghĩa triết học phải bao hàm cả hai đặc trưng. Đó vừa sự phụ thuộc, ràng  
buộc, quy định lẫn nhau, vừa sự tác động qua lại lẫn nhau.  
Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến bao gồm: Một là, mối liên  
hệ giữa các sự vật, hiện tượng là mang tính khách quan, phổ biến; Hai là, bản chất  
của sự vật hình thành, biến đổi bộc lộ thông qua mối liên hệ phổ biến; Ba là,  
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng mang tính phong phú, đa dạng phức tạp.  
Phát triển – theo quan điểm duy vật biện chứng – là một khái niệm dùng để  
chỉ quá trình vận động theo xu hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện  
đến hoàn thiện hơn. Như vậy, phát triển một trường hợp đặc biệt của vận động,  
vận động hướng và theo hướng tiến lên. Trong quá trình vận động theo khuynh  
hướng đó, không chỉ sự tăng lên hay giảm đi về lượng mà còn có sự thay đổi về  
chất, làm nảy sinh những quy định mới về chất, làm xuất hiện những chất mới,  
những sự vật mới.  
Nội dung của nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Một là, phát triển là  
khuynh hướng phổ biến; Hai là, phát triển một quá trình “tự thân”, “tự thân”  
phát triển  
Sự liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động và phát  
triển. Do đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có  
mối liên hệ hữu cơ với nhau và đều cơ sở, nền tảng của phép biện chứng duy  
vật, trong đó có nguyên tắc lịch sử - cụ thể.  
2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể:  
2.1. Định nghĩa, nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể:  
Nguyên tắc lịch s- cụ thể một trong những nguyên tắc quan trọng nhất  
của phép biện chứng Macxit. Nó đòi hỏi phải xem xét các hiện tượng trong tự  
nhiên, xã hội duy theo quan điểm: “Một hiện tượng nhất định đã xuất hiện  
trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ  
yếu nào, và đứng trên quan điểm của sphát triển đó đxem xét hiện nay nó đã trở  
thành như thế nào”  
Theo triết học duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng của thể giới đều  
tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ  
thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính  
chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều  
kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của sẽ  
khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. Bởi vậy,  
không chỉ nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu  
chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch s- cụ thể khác  
nhau đó.  
Sự vật trong thể giới khách quan bao giờ cũng tồn tại dưới dạng những cái  
cụ thể, luôn gắn với những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể nhất định. Khi những hoàn  
cảnh lịch sử - cụ thể thay đổi, sự vật cũng biến đổi, những tri thức phản ánh sự vật  
đó cũng phải biến đổi theo. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Không có chân lý  
trừu tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể”.  
Lịch sử phản ánh tính biến đổi trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển  
hóa của sự vật, hiện tượng. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có quá trình phát  
sinh, phát triển diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể,  
bao gồm mọi sthay đổi sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh  
khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Do vậy, nghiên cứu sự vật,  
hiện tượng cần có quan điểm lịch sử - cụ thể.  
2.2. Yêu cầu của nguyên tắc lịch sử - cụ thể:  
Nguyên tắc lịch s- cụ thể đòi hỏi trong quá trình nhận thức cải tạo sự  
vật, hiện tượng phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:  
Một là, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển  
và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể trong đó tồn tại. Biết phân tích cụ thể một tình  
hình cụ thể.  
Chân lý được hình thành bao giờ cũng dựa trên sự phân tích và khái quát  
những điều kiện lịch sử - cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng diễn ra. Vì vậy, bất cứ  
một tri thức trừu tượng nào tách khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể đều trở nên  
trống rỗng. Với nghĩa đó V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, mọi chân lý trừu tượng đều sẽ  
trở thành một lời nói suông, trống rỗng nếu người ta đem áp dụng nó vào bất cứ  
tình hình cụ thể nào.  
Trong tác phẩm Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt về những  
sai lầm của đồng chí Tờrốtxki và Bukharin, V.I.Lênin đã phê phán Bukharin không  
phân tích toàn bộ lịch sử cuộc tranh luận trong thực tiễn lúc bấy giờ, điều chủ  
nghĩa Mác, logic biện chứng đòi hỏi tuyệt đối phải làm, và ông chỉ ra rằng: “Muốn  
đặt vấn đề đó một cách đúng đắn thì phải chuyển từ những khái niệm trừu tượng  
trống rỗng sang cái cụ thể, tức là sang cuộc tranh luận hiện nay”. Đó là, trong thời  
kỳ chuyên chính vô sản, Đảng đội tiên phong trực tiếp nắm chính quyền, do đó  
công đoàn phải trường học chủ nghĩa công sản, trường học quản lý kinh tế.  
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin bắt tay vào việc  
vạch ra đường lối xây dựng chủ nghĩa hội ở nước Nga Xôviết, một nước tư bản  
phát triển trung bình, còn lạc hậu về kinh tế, đơn độc trong vòng vây của chủ nghĩa  
tư bản thế giới, thù trong, giặc ngoài, chiến tranh liên miên … đã buộc phải áp  
dụng nhiều biện pháp kinh tế thời chiến với mong muốn đưa nước Nga tiến thẳng  
lên chủ nghĩa hội. cũng xuất phát từ thực tế lịch sử ấy, V.I.Lênin đã phát  
hiện ra rằng, Chính sách cộng sản thời chiến, một mặt nhằm bảo đảm chiến thắng  
thù trong, giặc ngoài; mặt khác, sự kéo dài quá mức Chính sách cộng sản thời  
chiến khi Chiến tranh kết thúc đã dẫn nền kinh tế nước Nga Xôviết tới bờ vực  
thẳm. Trong bối cảnh đó, với một nhãn quan chính trị sắc bén, với một sự táo bạo  
dám vượt lên chính mình, V.I.Lênin đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga thay đổi một  
cách căn bản quan niệm về xây dựng chủ nghĩa hội, từ đó đề ra Chính sách kinh  
tế mới (NEP). Tư tưởng đó không phải là cái từ óc nặn ra một cách đơn thuần,  
không phải là cái có sẵn trong sách vở, mà là xuất phát từ thực tiễn đời sống, từ sự  
sáng tạo của hàng triệu, triệu quần chúng nhân dân, từ sự phân tích cụ thể một tình  
hình cụ thể.  
Hai là, vận dụng một nguyên lý, một chân lý khoa học nào đó phải gắn với  
những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Nguyên lý, lý luận, mỗi chân lý khoa học chỉ  
phản ánh những mối liên hệ và quan hệ nhất định, trong từng thời điểm nhất định.  
Nếu thoát ly những hoàn cảnh lịch s- cụ thể của nó thì chân lý thể trở thành  
sai lầm.  
Khi vận dụng những nguyên lý lý luận, những chủ trương, chính sách vào  
thực tiễn không được dừng lại ở những sơ đồ chung, những công thức và bài bản  
sẵn, phải tính đến những điều kiện, những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của sự  
vận dụng, tránh dập khuôn, giáo điều, máy móc, phải xuất phát từ hoàn cảnh lịch  
sử - cụ thể vận dụng một cách sáng tạo. Bởi lẽ, “Bản chất, linh hồn sống của  
chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”.  
Đương thời các nhà kinh điển mácxít nhiều lần nhắc nhở những người cộng  
sản ở các nước: khi vận dụng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin vào mỗi nước  
đòi hỏi “mỗi nguyên lý phải được xét theo quan điểm lịch sử; gắn với những  
nguyên lý khác; gắn liền với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử”.  
Khi vận dụng những chủ trương, chính sách của Trung ương vào các địa  
phương, các ngành đòi hỏi phải hết sức sáng tạo. Không nên coi những chủ trương,  
chính sách là những nguyên tắc bất di bất dịch, thể áp dụng nguyên xi trong mọi  
hoàn cảnh, mọi thời gian và địa điểm, phải phân tích kỹ lưỡng mọi hoàn cảnh,  
mọi điều kiện để vận dụng cho phù hợp.  
Ba là, xem xét đánh giá một sự vật, hiện tượng, một quan điểm, tư tưởng, lý  
luận nào đó phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Sự vật, hiện tượng, một  
quan điểm, tư tưởng, luận xuất hiện, tồn tại trong một điều kiện lịch sử - cụ thể  
nào đó. Do đó, khi đánh giá chúng phải gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể đó thì  
đảm bảo tính khách quan và chính xác. Có như thế mới tránh được sai lầm của chủ  
nghĩa hư về lịch sử, phỉ bang lịch sử.  
Trong Bút ký triết học, V.I.Lênin đặc biệt nhất mạnh ý nghĩa của nguyên tắc  
lịch sử - cụ thể đối với việc trình bày lịch sử triết học. V.I.Lênin đã đồng ý với ý  
kiến cho rằng “để khỏi gán cho những người thời cổ một sự “phát triển” nào đó của  
các ý niệm của họ, dễ hiểu đối với chúng ta, nhưng trên thực tế chưa thể ở họ”.  
Nguyên tắc lịch s- cụ thể có ý nghĩa trong việc xây dựng phương pháp  
khoa học trong nhận thức đánh giá lịch sử.  
Nguyên tắc lịch s- cụ thể không quy lịch sử về sự kể lể cái gì đã xuất hiện  
hoặc diễn ra khi nào và ở đâu, không xem xét lịch sử một cách giản đơn, mà trên  
cơ sở những mối liên hệ lịch sử làm nổi bật sợi dây logic của sự phát triển lịch sử,  
vạch ra quy luật vận động của lịch sử, từ đó hình thành phương pháp khoa học  
trong nhận thức đánh giá lịch sử. Đồng thời, nó kiên quyết đấu tranh chống lại  
thái độ phủ nhận sạch trơn đối với lịch sử, bất chấp những hoàn cảnh điều kiện  
lịch sử cụ thể.  
Nguyên tắc lịch s- cụ thể có ý nghĩa trong việc đấu tranh chống lại chủ  
nghĩa giáo điều trong nhận thức vận dụng. Đặc trưng của chủ nghĩa giáo điều  
trong lịch sử sự không thừa nhận tính quy định lịch sử - cụ thể của những tri  
thức khoa học. Họ phủ nhận tính tất yếu phải thay thế các luận điểm đã lỗi thời  
bằng những luận điểm mới phản ánh thực chất những sự thay đổi lịch sử đang diễn  
ra, về thực chất nhằm xuyên tạc bản chất của lịch sử. Do đó, cần phải kiên quyết  
đấu tranh chống lại chủ nghĩa giáo điều trong nhận thức và trong đánh giá lịch sử.  
3. Giai cấp đấu tranh giai cấp:  
3.1. Giai cấp:  
3.1.1. Định nghĩa:  
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin định nghĩa giai cấp như sau:  
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về  
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất hội nhất định trong lịch sử, khác nhau  
về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định thừa  
nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã  
hội, như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ về phần của cải hội ít  
hoặc nhiều họ được hưởng. Giai cấp những tập đoàn người, tập đoàn này  
thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó địa vị  
khác nhau trong một chế đkinh tế hội nhất định”.  
Định nghĩa trên cho thấy:  
Thứ nhất, nói tới những giai cấp là nói tới “những tập đoàn người to lớn”  
trong xã hội. Tính “đông đảo, to lớn” do có thể ở tầm phạm vi quốc tế như khi nói  
về giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Đây cũng một  
chuẩn mực quan trọng để xác định trong một hội nhất định những giai cấp  
nào.  
Thứ hai, giai cấp những tập đoàn người được phân biệt với nhau bởi địa vị  
của họ trong một hệ thống sản xuất hội nhất định. Sự phân định giai cấp dựa  
trên cơ sở phân định địa vtrong hệ thống kinh tế - xã hội nhưng được phân tích cơ  
bản trên ba phương diện có quan hệ thống nhất với nhau là: sở hữu về tư liệu sản  
xuất, tổ chức lao động hội, phương thức và quy mô thu nhập của cải. Trong đó  
phương diện quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, có ý nghĩa  
quyết định, còn trên phương diện phân phối của cải hội biểu hiện rõ nét và dễ  
thấy nhất.  
Thứ ba, thực chất của sự phân định giai cấp là xác định một quan hệ chiếm  
đoạt của tập đoàn người này đối với tập đoàn khác. Điều đó là do nguyên nhân  
phân biệt địa vkhác nhau trong một chế đkinh tế - xã hội nhất định. Nói cách  
khác, đó sự hợp pháp hóa địa vị sự chiếm đoạt lao động giữa tập đoàn này với  
tập đoàn người khác bằng một thể chế nhà nước. đó thực chất đối kháng giai  
cấp.  
Từ đây, thể thấy:  
Một là, sự tồn tại giai cấp một tất yếu lịch sử, do trình độ phát triển còn  
hạn chế của lực lượng sản xuất, và vì vậy sự tồn tại tất yếu của chế độ sở hữu tư  
nhân về tư liệu sản xuất.  
Hai là, sự tồn tại của giai cấp là khách quan nhưng nó không phải hiện  
tượng vĩnh viễn của lịch sử nhân loại; hội loài người đã từng trải qua giai đoạn  
lịch sử không có giai cấp (xã hội thị tộc, bộ lạc) cũng sẽ tất yếu phát triển đến  
hội không có giai cấp đó là xã hội cộng sản tương lai.  
Ba là, sự đối kháng trong chế độ kinh tế là nguyên nhân dẫn đến đối kháng  
giữa các giai cấp trong xã hội nhất định. Nói cách khác, nguyên nhân phát sinh giai  
cấp từ chế đkinh tế, từ cơ sở kinh tế của hội. Cuộc cách mạng xóa bỏ giai  
cấp cuộc cách mạng không thể theo ý muốn chủ quan hay bằng sức mạnh bạo  
lực thuần túy, mà phải một cuộc cách mạng kinh tế mấu chốt của nó là phát  
triển lực lượng sản xuất đến trình độ hội hóa cao.  
3.1.2. Nguồn gốc của giai cấp:  
C. Mác khẳng định: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai  
đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”.  
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là sự ra đời  
tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt đối với  
những tư liệu sản xuất chủ yếu của hội, bởi chỉ có trong điều kiện đó mới có  
khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sphân biệt địa vị của các tập đoàn  
người trong quá trình sản xuất hội. Do đó, dẫn tới khả năng tập đoàn này có thể  
chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác.  
Nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình  
trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ hội hóa cao của lực lượng sản xuất.  
Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình độ hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên  
nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và  
do đó dẫn tới sxóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội.  
3.1.3. Đặc trưng của giai cấp:  
Giai cấp trong xã hội có 3 đặc trưng cơ bản như sau:  
Thứ nhất, các giai cấp trong xã hội khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản  
xuất.  
Thứ hai, các giai cấp trong xã hội khác nhau về vai trò trong tổ chức lao  
động hội, trong tổ chức quản sản xuất.  
Thứ ba, các giai cấp khác nhau về phương thức thu nhập của cải hội.  
3.2. Đấu tranh giai cấp:  
3.2.1. Định nghĩa:  
Chủ nghĩa duy vật lịch scho rằng nguyên nhân đấu tranh giai cấp là do đối  
lập về lợi ích địa vị kinh tế của các giai cấp khác nhau. Thực chất đấu tranh giai  
cấp đấu tranh giữa giai cấp thống trvà giai cấp bị trị.  
Theo V.I.Lênin: “Đấu tranh giai cấp đấu tranh của một bộ phận nhân dân  
này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị  
áp bức và lao động, chống bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức bọn ăn bám,  
cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người sản  
chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.  
Đấu tranh giai cấp thực chất cuộc đấu tranh giữa các giai cấp lợi ích cơ  
bản (lợi ích kinh tế) đối lập nhau không điều hòa được. dụ, đấu tranh giữa chủ  
nô và nô lệ trong chế độ chiếm hữu lệ; đấu tranh giữa sản tư sản trong xã  
hội tư bản chủ nghĩa… Đấu tranh giữa nông dân và công nhân (nếu có) trong chủ  
nghĩa hội, xét về bản chất không phải đấu tranh giai cấp, lợi ích của công  
nhân và nông dân về cơ bản thống nhất với nhau. Do vậy, thể giải quyết bằng  
con đường thỏa hiệp, thỏa thuận, đàm phán…  
Gắn liền với đấu tranh giai cấp là liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp là  
một tất yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp. Những giai cấp, tầng lớp lợi ích cơ  
bản không đối lập nhau, phù hợp nhau liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh giai  
cấp. Chính vì vậy, trong quá trình của cuộc đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp đều tập  
hợp những lực lượng, những giai cấp, những tầng lớp khác nhau trong xã hội về  
phía mình. Cơ sở của sự liên minh này sự phù hợp về lợi ích, có thể cơ bản,  
lâu dài, có thể là không cơ bản tạm thời.  
3.2.2. Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp:  
Trong xã hội sự phân hóa giai cấp, giai cấp thống trị luôn tìm cách chiếm  
đoạt lao động của các giai cấp tầng lớp bị trị, chiếm đoạt toàn bộ của cải vào tay  
mình. Các giai cấp tầng lớp bị trị không chỉ bị chiếm đoạt về của cải, họ còn  
bị chiếm đoạt về chính trị, hội và tinh thần.  
Giai cấp thống trị luôn dùng mọi biện pháp và thủ đoạn để bảo vệ địa vị, duy  
trì các quyền lợi của họ. Công cụ chủ yếu của giai cấp thống trị để bảo vệ các  
quyền lợi của họ sử dụng quyền lực nhà nước từ hệ thống pháp luật đến bmáy  
cưỡng bức. Chính vì vậy, lợi ích của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đối lập  
nhau, tạo ra mâu thuẫn đối kháng. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của đấu tranh  
giai cấp, bất cứ một hội nào còn tồn tại giai cấp “ở đâu có áp bức, ở đó đấu  
tranh”.  
3.2.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển hội:  
Đấu tranh giai cấp một trong những động lực cơ bản của lịch sử từ khi có  
giai cấp. Thông qua đấu tranh giai cấp, quan hệ sản xuất mới được xác lập phù hợp  
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, giải phóng sức sản xuất xã  
hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.  
Đấu tranh giai cấp còn góp phần cải tạo hội, xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu,  
bảo thủ, tạo cơ sở cho cái mới cái tiến bộ nảy sinh và phát triển. Thông qua đấu  
tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật, đạo đức… được phát  
triển phù hợp với sự tiến bộ của hội.  
Đáu tranh giai cấp cũng góp phần cải tạo giai cấp cách mạng, để trở thành  
giai cấp đủ năng lực lãnh đạo đối với toàn xã hội.  
3.2.4. Các hình thức đấu tranh giai cấp:  
Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp đấu tranh kinh tế: Thông qua  
đấu tranh về những lợi ích kinh tế hàng ngày mà giác ngộ về lợi ích giai cấp. Tuy  
là hình thức thấp nhất, nhưng lại rất quan trọng, vì nó tạo môi trường thực tiễn,  
giúp giai cấp công nhân giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình.  
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh giai cấp đấu tranh tư tưởng luận: Các  
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, giai cấp sản là giai cấp triệt để  
cách mạng không phải đó là giai cấp cuối cùng của lịch sử, trước hết lợi  
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối lập với lợi ích của giai cấp tư  
sản; giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, cách mạng  
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin, giác ngộ giai cấp  
làm cho công nhân hiểu ra sứ mệnh lịch sử của mình thì phải tiến hành cuộc đấu  
tranh tư tưởng, giải phóng công nhân khỏi hệ tư tưởng tư sản và các tư tưởng  
không vô sản, đưa luận mácxít vào phong trào công nhân, làm cho phong trào  
đấu tranh của giai cấp sản từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác.  
Giai đoạn thứ ba của đấu tranh giai cấp đấu tranh chính trị, đây là giai  
đoạn đấu tranh cao nhất: Nhiệm vụ cơ bản của đấu tranh chính trị thủ tiêu bộ  
máy nhà nước cũ, thiết lập nền chuyên chính mới sử dụng chuyên chính đó để  
xây dựng hội mới. Lúc này, vấn đề giành quyền lực nhà nước được đặt ra một  
cách trực tiếp. Đấu tranh chính trị gắn liền với sự bùng nổ cách mạng hội. C.  
Mác cho rằng, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp sản  
biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy chính quyền thực thi dân chủ.  
V.I.Lênin cũng khẳng định: Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai  
cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới người mácxít.  
I. NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ TRONG VIỆC THỰC HIỆN  
ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY  
1. Đặc thù của vấn đề giai cấp ở Việt Nam:  
Tại Đại hội lần thứ IV (12/1976), Đảng ta đã chỉ ra tính chất của quá trình  
cách mạng hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức  
tạp giữa hai giai cấp tư sản và vô sản, giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã  
hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo với  
xây dựng. Trong cải tạo có xây dựng và trong xây dựng cải tạo, trong đó xây  
dựng chủ yếu. Chúng ta vừa xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới “từ gốc đến  
ngọn. Phải tạo ra cả lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới; tạo ra cả cơ  
sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới”.  
Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng tiếp tục khẳng định: “Thời kỳ quá độ ở nước  
ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn  
phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó một  
thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một  
chế độ hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất kiến trúc thượng  
tầng. Đó một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường  
hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội nhằm giải quyết vấn  
đề “ai thắng ai”. Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định trong các kỳ đại hội tiếp  
theo.  
Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng đã chra nội dung, thực chất của cuộc đấu  
tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam, là “thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp  
hóa, hiện đại hóa theo định hướng hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước  
nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng hội, chống áp bức, bất công; đấu  
tranh ngăn chặn khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu  
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;  
bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước hội chủ nghĩa phồn  
vinh, nhân dân hạnh phúc”.  
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới hiện nay, mặc vấn đề  
“đấu tranh giai cấp” không được đề cập nhiều như trước đây, nhưng trên thực tế  
“… đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang…  
tiếp tục diễn ra phức tạp”. Điều đó cho thấy tính chất gay go, phức tạp, lâu dài,  
gian khó của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay không chỉ ở nước ta  
mà trên phạm vi toàn thế giới.  
2. Nguyên tắc lịch s- cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở  
nước ta hiện nay:  
Đấu tranh giai cấp hiện tượng tất yếu của lịch sử trong xã hội có giai cấp.  
Cuộc đấu tranh giai cấp trải qua các giai đoạn, phản ánh ba trình độ phát triển khác  
nhau của đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác, từ sự thỏa mãn những nhu cầu  
sinh hoạt tức thời đến nhận thức hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử của giai cấp.  
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, đấu tranh chính trị đỉnh cao của đấu tranh giai  
cấp. Bên cạnh đó còn khẳng định vấn đề chính trị luôn gắn với sự vận động biến  
đổi của thời đại, được đặt trong một điều kiện lịch sử nhất định.  
Nghiên cứu về việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, nhất thiết  
chúng ta phải đứng trên quan điểm của nguyên tắc lịch s- cụ thể. Chđặt trong  
những điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian xác định thì chúng ta mới hiểu  
đúng những nội dung, đặc điểm của việc đấu tranh giai cấp, cũng như vai trò của  
việc thực hiện đấu tranh giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách  
khác, nhờ có quan điểm lịch sử - cụ thể, chúng ta có thể nhận ra những giá trị tích  
cực hạn chế; mặt mạnh mặt yếu của việc thực hiện đấu tranh giai cấp trong  
những điều kiện nhất định. Mỗi giai đoạn lịch sử, đấu tranh giai cấp được thực hiện  
với hình thức, tính chất mức độ khác nhau.  
Ở thời đại Bác Hồ, Người đã từng nói: “Mác đã xây dựng học thuyết của  
mình trên một triết nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu.  
Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Ở đây ta có thể thấy tư duy  
của phương Đông, của Việt Nam (mà Bác Hồ một đại diện – lúc bấy giờ Bác với  
tên gọi Nguyễn Ái Quốc), khác với châu Âu. Triết học ở phương Tây thiên về  
lý, duy lý, có lúc đơn thuần, duy nhất, cực đoan. Ở Việt Nam có một triết lý khác:  
cả lý và tình. Trong cái xấu còn có thể tìm ra cái tốt, ở cái mạnh vẫn bộc lộ  
điểm yếu, trong âm có dương... Nguyễn Ái Quốc dẫn ra lý luận của Mác: “Sự tiến  
triển của hội phải trải qua 3 giai đoạn: chế độ lệ, chế độ nông nô, chế độ tư  
bản và trong mỗi giai đoạn ấy đều đấu tranh giai cấp tuy có khác nhau”. Nhưng  
Nguyễn Ái Quốc lại cảnh báo: “Chúng ta phải coi chừng. Các dân tộc Viễn Đông  
trải qua 2 giai đoạn đầu không?”. Nguyễn Ái Quốc không phủ nhận “đấu tranh  
giai cấp” châu Âu theo chủ nghĩa Mác, mà suy tính vận dụng chủ nghĩa Mác vào  
Việt Nam như thế nào để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.  
Theo mạch tư duy riêng của mình, Bác không định nghĩa cách mạng theo  
cách châu Âu là biến đổi bất ngờ và táo bạo trong cơ cấu kinh tế hội, khởi  
nghĩa, nổi dậy, nổi loạn, bước ngoặt cơ bản, bước nhảy vọt bất ngờ từ một tình  
trạng chất lượng này sang một chất lượng khác, cuộc biến đổi lớn thông qua đấu  
tranh giai cấp... Trên cơ sở thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã định nghĩa ngay  
từ năm 1927 - trong Đường Kách mệnh: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới,  
phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Như vậy, làm cách mạng ở Việt Nam đâu nhất thiết theo  
cách hiểu của phương Tây?  
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta đã  
được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa trong các văn kiện Đại hội, Hội nghị.  
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội  
(Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã tiếp tục nhận định: “Các mâu thuẫn cơ  
bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức mức độ khác nhau vẫn tồn tại  
và phát triển. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế  
lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ  
trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,  
khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi  
ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp”. Trong xu thế đó, các thế lực thù địch với chủ  
nghĩa hội đang ráo riết tiến hành mọi biện pháp và âm mưu chống phá sự  
nghiệp cách mạng độc lập dân tộc của các quốc gia theo chế độ hội chủ  
nghĩa.  
Ở nước ta vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao  
động của dân tộc nên việc thực hiện đấu tranh giai cấp để bảo vệ thành quả cách  
mạng, bảo vệ lợi ích của nhân dân là một tất yếu.  
Trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay, nội dung của đấu tranh giai cấp ở nước ta  
nhiều thay đổi trong các lĩnh vực của đời sống hội, cụ thể:  
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế. Thực hiện đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực  
kinh tế thực chất để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển mọi tiềm năng để  
chuẩn bị cơ sở vật chất để xây dựng chủ nghĩa hội. V.I.Lênin từng nói, nếu  
không có sự tăng lên nhanh chóng của lực lượng sản xuất thì chúng ta không có cơ  
sở vật chất để xây dựng chủ nghĩa hội. Thực chất của đấu tranh giai cấp trên  
lĩnh vực kinh tế củng cố, duy trì sự thống trị của quan hệ sản xuất hội chủ  
nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế; chống áp bức bóc lột, bất công; thực  
hiện kiểm soát chặt chẽ của cải, tài sản của Nhà nước và nhân dân…  
Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị. Đấu tranh giai cấp để bảo vthành quả  
cách mạng; duy trì và củng cố hệ thống chính trị hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng,  
bảo vệ Nhà nước; đấu tranh ngăn chặn các thế lực thù địch, bảo vệ quyền làm chủ  
của nhân dân…  
Thứ ba, trong lĩnh vực tư tưởng. Giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản vạch  
trần âm mưu của các thế lực thù địch, phản động; truyền thế giới quan khoa học,  
cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin; xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh;  
phát huy được tính tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân trong quá trình  
xây dựng bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin; bảo vệ  
đường lối của Đảng.  
Thứ tư, trong lĩnh vực văn hóa – xã hội. Đấu tranh chống lại tư tưởng phản  
văn hóa, chống lối sống lai căng; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà  
bản sắc dân tộc; đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công; xây dựng quan hệ xã  
hội lành mạnh, tiến bộ, văn minh, vì sự phát triển.  
thể nói, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta nằm trong  
quy luật chung của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa hội, thời  
đại giải phóng dân tộc, thời đại của những hình thức đấu tranh giai cấp mới. Song,  
bên cạnh quy luật chung đó, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những biểu hiện đặc  
thù, những đặc điểm riêng biệt, độc đáo. vậy, những nội dung, hình thức của  
cuộc đấu tranh giai cấp phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể.  
II. NHẬN THỨC RÚT RA TỪ NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ  
TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA:  
Thông qua việc vận dụng nguyên tắc lịch s- cụ thể trong việc thực hiện  
đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay, chúng ta có thể kết luận rằng, mỗi thời điểm,  
giai đoạn lịch sử khác nhau, việc đấu tranh giai cấp đối tượng, hình thức khác  
nhau. Đấu tranh giai cấp tất yếu khách quan, nhưng để giải quyết vấn đề đấu  
tranh giai cấp phải tiến hành một cách linh hoạt, không nên cường điệu, tuyệt đối  
hóa đấu tranh. Nhận thức được nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong việc thực hiện đấu  
tranh giai cấp ở nước ta hiện nay, nhất là trong bối cảnh hiện tại, khi nước ta đang  
trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, thì chúng ta có thể đưa ra được những  
giải pháp phù hợp trong tình hình mới.  
Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa,  
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới nhiều phức tạp,  
phong trào cách mạng thế giới những biến đổi to lớn. Do vậy, Đảng ta yêu cầu  
phải nhận thức cho đúng thực chất, tính chất, nội dung, hình thức của cuộc đấu  
tranh giai cấp.  
Giải quyết vấn đề giai cấp phải trên quan điểm biện chứng, có thái độ thận  
trọng, bình tĩnh, sự xem xét vấn đề một cách thấu đáo, tránh thái độ tả khuynh,  
hữu khuynh. Quan điểm bảo thủ, hẹp hòi, xơ cứng về vấn đề này không chỉ gây trở  
ngại cho công cuộc mở cửa, hòa nhập vào đời sống kinh tế quốc tế - một yêu cầu  
khách quan của thời đại hiện nay, mà còn là nguy cơ chệch hướng hội chủ  
nghĩa.  
Đảng ta xác định, mặc thực chất đấu tranh giai cấp không thay đổi, nhưng  
ở mỗi thời kỳ, do yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng nội dung, hình thức  
đấu tranh giai cấp thể thay đổi cho phù hợp. Trong điều kiện hiện nay, nhiệm vụ  
cơ bản của đấu tranh giai cấp tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,  
tăng cường liên minh giai cấp vững mạnh. Bởi vì, “Đại đoàn kết toàn dân tộc là  
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ  
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng  
bảo vệ Tổ quốc”.  
Việc ban hành chính sách về vấn đgiai cấp phải góp phần xây dựng khối  
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng của liên minh giữa công nhân với nông dân  
và trí thức. Coi trọng xây dựng và phát triển giai cấp công nhân – giai cấp lãnh đạo  
sự nghiệp cách mạng của dân tộc.  
Đấu tranh giai cấp với tư duy nhà báo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh -Ts Nguyễn  
Văn Khoan – Báo Đại biểu nhân dân 18/06/2011  
docx 15 trang yennguyen 01/04/2022 5520
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Triết học - Chủ đề số 6: Nguyên tắc lịch sử - Cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_triet_hoc_chu_de_so_6_nguyen_tac_lich_su_cu_the_tr.docx