Bài thu hoạch môn Triết học - Đề tài: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỞ ĐẦU  
Nhà nước pháp quyền một mô hình, phương thức tổ chức nhà nước và xã  
hội dựa trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Đảng ta đã nhận  
thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết việc xây dựng Nhà nước pháp quyền  
XHCN Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra: “Trăm điều phải có  
thần linh pháp quyền1. Từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII  
(tháng 1-1994), Đảng ta đã chính thức nêu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền  
thực sự của dân, do dân, vì dân. Trải qua các hội nghị và các kỳ Đại hội Đảng, nhất  
từ Đại hội VIII (năm 1996) đến nay, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp  
quyền XHCN và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng được bổ  
sung và có những bước phát triển quan trọng. Tại Đại hội XII, Đảng ta có những  
bổ sung, phát triển luận về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền  
XHCN, trong đó vừa làm sâu sắc thêm những quan điểm, tư tưởng đã được thể  
hiện nhất quán trong các văn kiện trước đó của Đảng, vừa những phát triển mới  
đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn.  
Khởi đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng tháng Tám thành  
công, bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do  
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước toàn dân đồng bào ngày 2/9/1945 đã khẳng định  
quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam không chỉ trong mục tiêu độc lập dân tộc mà  
còn trong mục tiêu phấn đấu một chế độ pháp quyền độc lập dân chủ,….  
Trung thành với mục tiêu dân chủ, dân quyền, dân sinh, ngay sau khi dành  
được độc lập, dân tộc Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng một bản Hiến pháp. Ngay  
phiên họp đầu tiên của Chính phủ giữa muôn vàn khó khăn thách thức, Hồ Chí  
Minh đã đề xuất một trong những nhiệm vụ cấp bách là “phải một hiến pháp  
dân chủ”…. Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế  
độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân  
dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải một Hiến pháp  
dân chủ,…”.  
1 Yêu cầu ca, báo Nhân Dân, ngày 30/1/1977  
1
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chủ Tịch, Hiến pháp năm 1946, bản Hiến  
pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc Viện Nam và trong lịch sử dân tộc Đông Nam  
Á đã được xây dựng và thông qua. Với Hiến pháp năm 1946 chủ nghĩa lập hiến và  
quyền con người từ các giá trị tư tưởng đã trở thành các giá trị pháp luật hiện thực  
trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những quy định của Hiến pháp năm  
1946 là những chuẩn mực hiến định đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp  
quyền ở Việt Nam.  
Đã hơn bảy mươi năm trôi qua, 5 bản Hiến pháp đã lần lượt thông qua tương  
ứng với các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Vượt lên tất cả sự thăng  
trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi một bản Hiến pháp, kể cả Hiên pháp 1946, Hiên  
pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 là một mốc  
quan trọng trong quá trình xây dựng củng cố nhà nước pháp quyền XHCN của  
chúng ta.  
Tuy nhiên quá trình xây dựng tăng cường Nhà nước trong mấy chục năm  
qua cho thấy, hàng loạt vấn đề luận về tổ chức hoạt động của Nhà nước vẫn  
chưa được tổng kết làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động của  
Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn chưa đưa lại các kết  
quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà nước cơ chế vận hành  
của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò của Nhà nước ta trong cơ chế  
kinh tế mới. Nhận thức luận về chế độ Pháp quyền trong hoạt động Nhà nước và  
hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước hiện nay và do vậy chưa  
tạo lập được cơ sở khoa học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách  
thực tiễn với đời sống Nhà nước. Chính vì thế sự nghiên cứu luận thực tiễn  
về nhà nước pháp quyền đang một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.  
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP  
QUYỀN HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM  
1. Sự hình thành tư tưởng vnhà nước pháp quyền  
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng  
chính trị - pháp lý, gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc Châu Âu  
tự do, dân chủ. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng  
2
phát triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của  
các nhà tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322  
Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng  
chính trị và pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu  
(1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 – 1804), Hêghen (1770 -  
1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.  
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng  
vĩ đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền như  
Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 – tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776),  
Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826)…  
Như vậy, nghiên cứu lịch sử của vấn đề này cho thấy rằng, chính các nhà luật  
học người Đức như: Môn, Van ke là những người đầu tiên đưa ra khái niệm “nhà  
nước pháp quyền” từ thế kỷ XIX, trong đó tư tưởng trung tâm là đề cao sự thống  
trị của pháp luật đối với mọi hoạt động của nhà nước cũng như đối với mọi hoạt  
động của đời sống hội. thể nói rằng, các nhà tư tưởng tư sản đã có công đề  
xuất tư tưởng và lý luận về nhà nước pháp quyền, song do nhiều nguyên nhân khác  
nhau, nên tư tưởng của các ông vẫn còn nhiều hạn chế, chưa làm sáng tỏ được các  
vấn đề về bản chất, nguồn gốc của nhà nước pháp quyền; mối liên hệ về mặt pháp  
giữa nhà nước và công dân; đặc điểm những điều kiện để thực hiện nhà nước  
pháp quyền…  
Chỉ đến thời kỳ C.Mác – Ph.Ăng ghen, tư tưởng về nhà nước pháp quyền mới  
được làm sáng tỏ đầy đủ hơn trên cơ sở của thế giới quan duy vật biện chứng.  
Trong tác phẩm “Lời nói đầu góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê  
ghen”, Mác đã phê phán quan điểm sai lầm của Hê ghen coi nhà nước, pháp luật  
đứng trên xã hội, trên cá nhân và nhà nước Phổ đứng ở đỉnh chóp hình nón pháp  
luật, tuyệt đích của ý niệm không thể thay đổi và phát triển được nữa. Đặc biệt,  
Hê ghen còn có quan điểm sai lầm, phản động cho rằng, nhà nước sinh ra xã hội  
công dân…Mác đã kịch liệt lên án và khẳng định: không phải nhà nước sinh ra xã  
hội công dân, mà chính xã hội công dân sinh ra nhà nước cần thiết phải một  
nhà nước pháp quyền để duy trì sự ổn định của hội, pháp quyền tư sản còn có  
3
tác dụng trong giai đoạn đầu của hội cộng sản. Như vậy, tư tưởng về nhà nước  
pháp quyền đã xuất hiện từ lâu và ngày càng được phát triển, hoàn thiện. Nó là một  
giá trị của nhân loại, kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp lâu dài trong lịch  
sử nhằm chống lại sự độc đoán, chuyên chế, chà đạp dân chủ quyền con người  
trong xã hội công dân. Nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến sự ngự trị của pháp  
luật trong đời sống chính trị, hội với tư cách là ý chí của nhân dân.Tuy nhiên, do  
đặc điểm, truyền thống, văn hoá, lịch sử… của các nước khác nhau nên cũng hình  
thành các loại hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Vì thế, nhà nước pháp quyền  
không phải đặc tính riêng có của hội tư bản, mà còn là đặc tính của nhà nước  
hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Đối với nước ta, do  
đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội những yêu cầu đòi hỏi của  
thực tiễn quá trình đổi mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đặt ra tất yếu  
phải xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, trong sạch đủ năng lực  
quản lý, điều hành xã hội, làm tròn sứ mệnh lịch sử là xây dựng thành công chủ  
nghĩa hội bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  
2. Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa  
ở nước ta hiện nay  
Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay không  
phải là do ý muốn chủ quan của Đảng ta, cũng không phải sự bắt chước, dập  
khuôn từ một mô hình nhà nước pháp quyền nào đó, mà là yêu cầu khách quan của  
quá trình phát triển, đổi mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.  
Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa ở nước ta là sự vận dụng  
trung thành, sáng tạo tiếp tục thực hiện quan điểm của chủ nghĩa C.Mác -  
V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Khi đề cập tới đặc  
điểm của hội cộng sản trong giai đoạn thấp, Mác đã chỉ sự cần thiết phải duy  
trì pháp quyền tư sản để thực hiện sự phân phối sản phẩm theo lao động. Trong tác  
phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin cũng khẳng định rằng: “Vậy là, trong  
một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền  
tư sản vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản”2. Đối  
2 V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.121.  
4
với nước ta hiện nay, tuy chưa có giai cấp tư sản nhưng những cơ sở để nảy sinh  
giai cấp này vẫn còn tồn tại, vẫn còn nền kinh tế nhiều thành phần vẫn đang  
thực hiện sự phân phối theo lao động. vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền  
Việt Nam hiện nay là tất yếu khách quan.  
Ngay từ năm 1919, nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc, trong bức thư gửi Hội  
nghị Véc xây gồm 8 điểm đã đưa ra hàng loạt yêu sách đòi quyền tự do, dân chủ  
cho nhân dân Việt Nam, đồng thời đã đề cao vai trò của hiến pháp và pháp quyền  
trong quản lý xã hội. Trong yêu sách thứ 7, Người viết: Bảy xin hiến pháp ban  
hành, trăm điều phải thần linh pháp quyền. Rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã  
nghiên cứu, kế thừa chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và xây dựng nhà nước pháp  
quyền ở phương Tây, hình thành tư tưởng đặt nền móng cho một Nhà nước  
pháp quyền hội chủ nghĩa ở Việt Nam.  
Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn nước ta quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua  
chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, xuất phát điểm thấp, lại  
chịu ảnh hưởng nặng nề những tàn dư của chế độ phong kiến đè nặng lên suy nghĩ,  
lối sống, phong cách, tác phong làm việc của mỗi người. Điều đó, đã đang gây  
cản trở không nhỏ đến công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá  
đất nước. Nhận những ảnh ấy, đối với sự nghiệp kiến thiết đất nước, Bác Hồ đã  
chỉ ra rằng; “Cuộc cách mạng hội chủ nghĩa một cuộc biến đổi khó khăn nhất  
và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một hội hoàn toàn mới xưa nay chưa  
từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống,  
thói quen, ý nghĩ, và thành kiến gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm”3. Chính những  
nếp sống, thói quen, ý nghĩ đó đang sinh ra tư tưởng, tự do, tuỳ tiện, chủ quan, duy  
ý chí, dựa dẫm, ỷ lại, manh mún, trung bình chủ nghĩa, cục bộ địa phương, chỉ biết  
lợi ích cá nhân, trước mắt mà quên đi lợi ích cộng đồng, lợi ích lâu dài…Vì thế,  
chúng ta phải xây dựng một Nhà nước pháp quyền vững mạnh, thiết lập trật tự kỉ  
cương, khắc phục tình trạng tự do, vô chính phủ, “phép vua thua lệ làng”, hoàn  
thiện hệ thống pháp luật, qui phạm hoá các quan hệ hội, đưa các quan hệ hội  
vận động theo sự điều chỉnh của pháp luật. Đồng thời từng bước khắc phục những  
3 Trích lại Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 18, Nxb CTQH, H 2002, tr. 575.  
5
tác động tiêu cực của sản xuất nhỏ và tàn tích phong kiến gắn liền với quá trình cải  
tạo hội cũ, xây dựng hội mới. Đây việc làm khó khăn, phức tạp, lâu dài,  
cần phải kiên trì và vận dụng tổng hợp nhiều giải pháp, trong đó xây dựng một Nhà  
nước pháp quyền vững mạnh, với một hệ thống luật pháp đồng bộ, chặt chẽ, khoa  
học sẽ điều kiện tiên quyết để khắc phục tình trạng trên.  
Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa ở nước ta còn xuất phát từ  
những yêu cầu khách quan cấp thiết cả về đối nội đối ngoại trong tình hình mới.  
Về đối nội, đó là yêu cầu trực tiếp của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp  
hoá, hiện đại hoá, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu dân giàu nước  
mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải xây  
dựng một Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân  
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nền dân chủ và pháp chế, trong đó toàn bộ quyền  
lực nhà nước thuộc về nhân dân, thông qua Nhà nước mà nhân dân thực hiện  
quyền làm chủ của mình trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống hội. Trong Đại  
hội IX, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh  
được Đảng ta xác định “trọng tâm” của đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức  
hoạt động của hệ thống chính trị-một trong ba “lĩnh vực then chốt” cần tập trung  
sức đột phá trong giai đoạn hiện nay.  
Về đối ngoại, đó là yêu cầu của việc mở rộng đối ngoại đa phương, đa dạng vì  
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ hội; yêu cầu của việc chủ động hội  
nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế- hội, thực  
hiện thành công, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  
Báo cáo Chính trị Đại hội IX, đặt việc đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt  
động của Nhà nước trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn hữu cơ với việc phát huy  
dân chủ tăng cường pháp chế. Điều đó, dựa trên cơ sở luận khoa học của chủ  
nghĩa C.Mác - V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ, sự thống nhất  
giữa các tổ chức, thiết chế quan trọng bậc nhất của kiến trúc thượng tầng là nhà  
nước, nền dân chủ và pháp chế. Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam cũng cho thấy, việc  
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước, nền dân chủ và pháp  
chế có vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng, phát triển đất  
6
nước, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội cũng như trong giai đoạn đẩy  
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Nhận thức đúng đắn vai trò, tầm  
quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, nền dân chủ và pháp chế xã  
hội chủ nghĩa, Đảng ta đã bước đầu đề ra 5 quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc  
trong Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII và được khẳng định lại trong Nghị quyết  
Đại hội VIII. Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII tiếp tục cụ thể hoá các nguyên  
tắc đó thành 5 chủ trương và các nhiệm vụ kèm theo. Trong Báo cáo Chính trị Đại  
hội IX, X tiếp tục quán triệt các nguyên tắc, chủ trương trên đây, đồng thời bổ  
sung, phát triển, cụ thể hoá thêm một bước những quan điểm cơ bản đề ra  
những biện pháp thực hiện đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt động của Nhà nước,  
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện nay.  
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng nêu vấn đề: “Xây dựng và hoàn thiện  
Nhà nước pháp quyền XHCN4. “Xây dựng” và “hoàn thiện” Nhà nước pháp  
quyền đều những nhiệm vụ quan trọng, được tiến hành đồng thời, bổ khuyết cho  
nhau, xây dựng cũng chính là hoàn thiện, vừa xây dựng vừa hoàn thiện; ngược lại,  
trong hoàn thiện có xây dựng. Tuy nhiên, khi đặt vấn đề “Hoàn thiện Nhà nước  
pháp quyền XHCN”, Đảng ta đã xác định đi vào chiều sâu của nhiệm vụ này. Quá  
trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN sẽ là quá trình không ngừng nâng  
cao nhận thức luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp  
quyền nói chung và đúc kết kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng  
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng.  
Như vậy, với đặc điểm của nước ta hiện nay, do yêu cầu quản lý xã hội, đổi  
mới, xây dựng đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa,  
đang đặt ra vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam vững mạnh một tất  
yếu, là phù hợp với qui luật phát triển hội và là sự đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn  
xây dựng chủ nghĩa hội ở nước ta hiện nay.  
3. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam  
Nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến sự thống trị của pháp luật trong đời  
sống hội thông qua hình thức nhà nước. Xét về hình thức pháp lý, nhà nước  
4 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.36  
7
pháp quyền sự chi phối, ràng buộc, điều chỉnh của pháp luật đối với nhà nước và  
mọi thành viên trong xã hội. Xét về nội dung, đó việc bảo đảm một cách khách  
quan, toàn diện, quyền nghĩa vụ cho mọi công dân trong quá trình làm chủ xã  
hội và làm chủ bản thân mình. Tuy nhiên, do sự qui định của chế độ chính trị, của  
giai cấp cầm quyền những yếu tố dân tộc, văn hoá, truyền thống khác, nên bản  
chất đặc điểm của mỗi nhà nước pháp quyền ở từng quốc gia, dân tộc cũng khác  
nhau. Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận thức luận của Đảng ta về nhà  
nước pháp quyền hội chủ nghĩa, thể thấy:  
Một , Đảng đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước  
pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và  
Nhà nước.  
Hai là, nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: phương thức tổ  
chức dân chủ quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật cơ sở cho việc thực hiện  
quyền lực cũng như thực hiện các quyền nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội.  
Ba là, nhất quán chỉ bản chất của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa  
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực  
nhà nước đều thuộc về nhân dân.  
Bốn , nhận đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp chế,  
khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, tính tối  
cao của Hiến pháp trong đời sống hội.  
Năm , xác định được cơ chế vận hành của các quan quyền lực nhà nước:  
quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công, phối hợp giữa các quan  
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và pháp.  
Sáu là, thy rõ yêu cu mrng dân chủ đồng thi vi vic tăng cường klut,  
kcương, giáo dc đạo đức trong xây dng nhà nước pháp quyn xã hi chnghĩa.  
Bảy , khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt  
Nam đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ  
nghĩa Việt Nam. Điều đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý  
luận C.Mác – V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết luận chắc chắn được  
rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Tăng cường sự  
8
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam là  
nhằm bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là nhà  
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện  
phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước  
hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình và giữ vững tính chất hội chủ nghĩa của nhà  
nước pháp quyền.  
Nhà nước pháp quyn xã hi chnghĩa Vit nam có nhng đặc đim cơ bn sau:  
Nhà nước pháp quyn xã hi chnghĩa Vit Nam là nhà nước ca dân, do dân,  
vì dân, được xây dng da trên nn tng ca khi liên minh giai cp công nhân vi  
giai cp nông dân và tng lp trí thc, do Đảng cng sn Vit nam lãnh đạo.  
Trong Nhà nước đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là  
thống nhất, sự phân công và phối hợp giữa các quan nhà nước trong việc  
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và pháp.  
Tổ chức hoạt động của Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.  
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng việc  
tuyên truyền, giáo dục nâng cao đạo đức hội chủ nghĩa cho mọi công dân.  
Đây những đặc điểm cơ bản qui định sự khác biệt về chất giữa Nhà nước  
pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản. Bản chất  
của Nhà nước pháp quyền ở nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì  
nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triẻn theo định hướng  
hội chủ nghĩa; là Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở tăng cường,  
mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai  
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh  
đạo. Về mặt hình thức, chúng ta cũng dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, cũng  
đề cao vai trò của pháp luật, cũng đề cập tới quyền lập pháp, hành pháp và pháp.  
Nhưng về tính chất giai cấp thì Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và  
chính vì mang bản chất giai cấp công nhân nên Nhà nước ta còn mang tính nhân  
dân và tính dân tộc sâu sắc, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chúng  
ta cũng tổ chức ra các quan lập pháp, hành pháp và pháp, song không phải  
theo cơ chế tam quyền phân lậpnhư mô hình của các nhà nước tư sản, mà các cơ  
9
quan quyền lực của Nhà nước Việt Nam là thống nhất, nhưng sự phân cấp về  
nhiệm vụ, chức năng quyền hạn, song suy cho cùng tất cả mọi quyền lực đều  
thuộc về nhân dân. Nhà nước Việt Nam tuy đề cao đề cao vai trò của pháp luật,  
quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng không tuyệt đối hoá nó, theo kiểu nhà nước  
pháp trịnhư cách hiểu của một số người sự xuyên tạc của kẻ thù. Nhà nước  
một mặt đề cao vai trò của pháp luật; mặt khác, thường xuyên tuyên truyền, giáo  
dục cho mọi công dân hiểu bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam và sự  
cần thiết phải quản lý xã hội bằng pháp luật để trên cơ sở đó nâng cao trình độ giác  
ngộ pháp luật, ý thức gương mẫu chấp hành luật pháp, vai trò trách nhiệm trong  
thực hiện quyền nghĩa vụ công dân của mình trước Nhà nước và xã hội. Hơn  
nữa, Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng cũng  
không phải kiểu nhà nước đảng trị”. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà  
nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chủ trương; thông qua công tác cán bộ và  
hoạt động kiểm tra việc thực hiện đường lối đó. Đảng chức năng lãnh đạo chứ  
không bao biện, làm thay chức năng quản lý, điều hành xã hội của Nhà nước. Mục  
đích lãnh đạo của Đảng với Nhà nước không ngoài việc giữ vững bản chất giai cấp  
công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, nâng cao hiệu quả, hiệu  
lực quản của Nhà nước, làm cho pháp luật không phải là công cụ để áp bức, chà  
đạp quyền làm chủ của nhân dân, mà là làm cho pháp luật của Nhà nước trở thành  
nhu cầu, là công cụ để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước trên  
mọi lĩnh vực của đời sống hội.  
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, chỉ ra bản chất của Nhà nước pháp quyền xã  
hội chủ nghĩa Việt Nam giúp chúng ta nhận thức sâu sắc sự khác nhau căn bản  
giữa Nhà nước pháp quyền Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản, đồng thời là  
cơ sở để nghiên cứu quá trình hình thành, chỉ ra thực trạng đề xuất những giải  
pháp cơ bản nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam vững mạnh đáp ứng  
yêu cầu đòi hỏi của cách mạng trong tình hình mới.  
II. THỰC TRẠNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG  
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THEO  
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII  
10  
1. Quá trình hình thành và xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ  
nghĩa Việt Nam  
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt nền móng về tư tưởng cho việc  
xây dựng một Nhà nước pháp quyền ở Việt nam và Người đã biến tư tưởng đó  
thành hiện thực thông qua việc lãnh đạo thành công cách mạng Tháng Tám năm  
1945, lập nên Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công nông đầu  
tiên khu vực Đông Nam châu Á. Đó một Nhà nước thể hiện bản chất tốt đẹp  
và tính ưu việt của một chế độ hội mới - xã hội hội chủ nghĩa. Nhà nước gắn  
chặt chẽ với nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm quyền làm chủ  
thực sự của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống hội; là Nhà nước  
của dân, do dân và vì dân.  
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Nhà nước công nông ấy đã phải đương  
đầu với bao khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng vừa chống thù trong, giặc  
ngoài, vừa kiến thiết đất nước. Nhận thức rõ giá trị to lớn của thành quả cách mạng  
và vai trò của bộ máy chính quyền trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc, Chủ  
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã bắt tay ngay vào xây dựng kiện toàn Nhà nước  
non trẻ trên nền tảng pháp lý. Đó việc tổ chức thành công cuộc tổng tuyển cử  
vào ngày 6 tháng 1 năm 1946, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân  
chủ cộng hoà. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội khoá I họp kỳ đầu tiên, chính  
thức trao quyền cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập chính phủ, thành lập Uỷ ban  
dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đây bước đi đầu tiên  
để xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế. Với thắng lợi này,  
chúng ta đã thông báo và khẳng định với toàn thế giới rằng, nước Việt Nam dân  
chủ cộng hoà là một Nhà nước dân chủ, theo chính thể cộng hoà, là Nhà nước do  
nhân dân bầu cử lập nên, quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật. Như vậy,  
ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta đã một Nhà nước pháp quyền, mang bản  
chất giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, là công cụ tiến hành  
kháng chiến, kiến quốc, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường  
hội chủ nghĩa. thế, Nhà nước pháp quyền Việt nam đã mang tính xã hội chủ  
nghĩa rõ ràng và không ngừng được xây dựng, củng cố, hoàn thiện cho đến ngày  
11  
nay đã thực sự thể hiện bản chất ưu việt, dân chủ, nhân đạo của nó. Trải qua 4  
bản hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992) và việc ban bố, sửa đổi, bổ sung các  
bộ luật, đạo luật, các văn bản qui phạm pháp luật cùng với sự mở rộng của nhiều  
ngành luật… đã tạo ra một hành lang pháp lý đồng bộ chặt chẽ bảo đảm cho  
Nhà nước ta hoạt động hiệu quả, quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật. Đến  
Hiến pháp năm 2013, bản chất đặc điểm của Nhà nước pháp quyền hội chủ  
nghĩa ở nước ta đã được bổ sung, phát triển định hình khá rõ nét. Đây định  
hướng quan trọng để đánh giá những mặt làm được, chưa làm được, đồng thời đề  
ra giải pháp để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ  
nghĩa Việt Nam trong thực tiễn.  
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay, vấn đề xây  
dựng Nhà nước pháp quyền được đề cập toàn diện và rõ ràng hơn trong các văn  
kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X. Đặc biệt là trong các nghị quyết Trung ương đã  
bàn sâu về vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII về Tiếp tục xây  
dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trọng tâm là  
cải cách một bước nền hành chính”; Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII về Phát  
huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hoà xã hội chủ  
nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”… Báo cáo chính trị Đại hội XII đã dành  
riêng một ý trong phần phương hướng, nhiệm vụ để khẳng định: “Tiếp tục hoàn  
thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo nhiệm vụ  
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”5. Tuy đây sự tiếp tục quan điểm nhất  
quán của Đảng ta, song việc nhấn mạnh này trong văn kiện Đại hội đã cho thấy rõ  
quyết tâm chính trị của toàn Đảng. Đảng ta chỉ rõ: “Trong tổ chức hoạt động  
của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền phải  
tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp  
quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, pháp và được tiến hành  
đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;  
gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa-xã hội”6. Có thể nói rằng, từ khi ra đời đến nay,  
5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175  
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175  
12  
Nhà nước pháp quyền Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, xứng đáng trụ  
cột của hệ thống chính trị, phương tiện để thực hiện bảo đảm quyền làm chủ  
thực sự của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống hội.  
2. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt  
Nam trong thời gian qua và hiện nay  
Từ khi đổi mới đến nay, trong lĩnh vực cải cách tổ chức hoạt động của Nhà  
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, chúng ta đã thu được nhiều thành  
tựu quan trọng cả về nhận thức luận hoạt động thực tiễn. Về nhận thức lý  
luận, Đảng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về  
xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện  
qua các văn kiện, nghị quyết chuyên đề. Trong thực tiễn, Hiến pháp 1992 và nhiều  
Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước  
quản bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, hội, an ninh, quốc phòng. Đã  
nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng Nhà  
nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và  
hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà  
nước, trước hết của cơ quan hành chính nhà nước, đã một bước điều chỉnh  
theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao  
cấp sang quản nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có  
sự quản của Nhà nước theo định hướng hội chủ nghĩa. Nội dung, phương  
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã bước đổi mới. Dân chủ hội chủ  
nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ về kinh tế ngày càng  
được mở rộng. Dân chủ về chính trị bước tiến quan trọng. Đánh giá về điều đó,  
Báo cáo Chính trị Đại hội IX đã khái quát những thành tựu quan trọng sau đây:  
Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một  
bước. Nhà nước cố gắng trong việc điều hành, quản lý. Quyền làm chủ của nhân  
dân trên các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và qui chế bảo đảm quyền  
làm chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.  
Những thành tựu trên đây, đã góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm  
thay đổi bộ mặt của đất nước cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc  
13  
lập dân tộc chế độ hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên  
trường quốc tế.  
Tuy nhiên, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm. Từ trước đại hội  
X, các nghị quyết chuyên đề của Đảng về lĩnh vực này đã nhiều lần chỉ những  
yếu kém, khuyết điểm: Bộ máy Nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình  
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn;  
hiệu lực quản lý, điều hành chưa nghiêm, kỷ cương hội bị buông lỏng, làm giảm  
sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. Quản lý Nhà nước chưa  
ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực hạn chế  
tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản Nhà nước chưa  
được quản chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng. Tổ chức bộ  
máy Nhà nước còn nặng nề. Sphân công và phối hợp giữa các quan Nhà nước  
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, pháp còn có những điểm  
chưa về chức năng, nhiệm vụ. Mối quan hệ phân cấp Trung ương - địa phương  
còn nhiều mặt chưa cụ thể làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như phân  
tán, cục bộ chậm được khắc phục. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu đổi  
mới tổ chức hoạt động của Nhà nước, còn có tình trạng buông lỏng và bao biện,  
chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng hiệu lực điều hành  
của bộ máy Nhà nước. Đại hội XII chỉ ra những hạn chế: “Tổ chức bộ máy và cơ  
chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền hội  
chủ nghĩa như Quốc hôi, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những  
điểm chưa thật sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo,  
vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống  
nhất quyền lực nhà nước hiệu quả hoạt động của nhà nước7.  
nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ  
máy Nhà nước. Trước hết, về khách quan, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã  
hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết  
của chúng ta còn ít, có nhiều việc vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Về chủ  
quan, Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây  
7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr173  
14  
dựng Nhà nước để chủ trương kịp thời xử những vấn đề nảy sinh trong thực  
tiễn đổi mới, đặc biệt những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng  
quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước; thiếu  
những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối… Chúng ta chưa kịp thời tổng kết  
thực tiễn và còn thiếu cơ skhoa học khi quyết định một số chủ trương về sắp xếp,  
điều chỉnh tổ chức bộ máy Trung ương địa phương nên khi thực hiện có  
vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế. Các quan Nhà nước chưa phát  
huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán triệt tổ chức thực hiện các nghị quyết  
của Đảng. Các đoàn thể quần chúng chưa phát huy được quyền làm chủ trong việc  
tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức Nhà  
nước thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống và làm việc theo hiến pháp và  
pháp luật.  
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhìn nhận thẳng thắn, đánh giá đúng những  
ưu điểm và nghiêm khắc chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong xây dựng và hoàn  
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong thời gian qua, đồng thời xác  
định những nguyên nhân cốt lõi nhất của hạn chế, khuyết điểm. Theo đó, những  
tồn tại, hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta  
trong thời gian qua được Đảng ta chỉ ra bao gồm cả những vấn đề thuộc về thể chế,  
cơ chế, chính sách; cả về tổ chức hoạt động; cả về yếu tố con người. Về nguyên  
nhân của những hạn chế, Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng không trình bày  
dàn trải chỉ tập trung vào hai nguyên nhân cơ bản nhất: “Xây dựng Nhà nước  
pháp quyền XHCN là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh  
đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung  
chưa rõ; phương thức cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp còn  
nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp  
quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế XHCN chưa nghiêm8. Nếu  
nguyên nhân thứ nhất là khách quan, thì nguyên nhân thứ hai là chủ quan, trong đó  
tập trung trọng tâm vào vai trò của Đảng. Cách nhìn nhận, đánh giá như vậy cho  
thấy, Đảng ta đã sẵn sàng cho một sự “chuyển mình” cả về nhận thức và hành động  
8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr174  
15  
trong thời gian tới, nhằm tháo gỡ, minh bạch, chính xác hóa mối quan hệ Đảng -  
Nhà nước. Đây cũng chính là then chốt cho sự hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở  
nước ta hiện nay.  
Thực trạng trên đây, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng một Nhà nước  
pháp quyền hội chủ nghĩa Việt nam trong sạch, vững mạnh đủ sức quản lý, điều  
hành đất nước bằng pháp luật. Muốn vậy, cần phải một hệ thống giải pháp toàn  
diện, đồng bộ với sự kiên trì, kiên quyết triệt để trong thực hiện.  
3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa theo  
Nghị quyết Đại hội XII  
Vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp  
quyền XHCN được Đại hội XII của Đảng khẳng định sâu sắc hơn. So với Báo cáo  
chính trị Đại hội XI, Báo cáo chính trị Đại hội XII đã dành riêng một ý trong phần  
phương hướng, nhiệm vụ để khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Nhà  
nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ  
thống chính trị”9. Tuy đây sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng ta, song  
việc nhấn mạnh này trong văn kiện Đại hội đã cho thấy quyết tâm chính trị của  
toàn Đảng. Đảng ta chỉ rõ: “Trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, phải thực  
hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền phải tạo ra sự chuyển biến  
tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng  
bộ cả lập pháp, hành pháp, pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ  
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế,  
văn hóa-xã hội”. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị một  
trong tám mối quan hệ lớn cần nắm vững tập trung giải quyết đã được Đảng ta  
xác định. Trong đổi mới chính trị thì nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước  
pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo nhiệm vụ trọng tâm, có vai trò chi phối,  
quyết định đến các nhiệm vụ khác và đến việc giải quyết mối quan hệ lớn này.  
Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ hơn những nhiệm vụ, giải pháp nhằm  
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới.  
Đây những điểm mới nổi bật so với các văn kiện trước đây của Đảng, bao gồm:  
9 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175  
16  
“Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo  
quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền  
XHCN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập  
quốc tế”10. Đây giải pháp giữ vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả của  
nhiệm vụ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Hiến pháp năm  
2013, với vai trò “đạo luật gốc”, đã khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp  
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dựa trên nguyên tắc tất cả  
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công  
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đồng thời bổ sung thêm một  
nguyên tắc mới về kiểm soát quyền lực nhà nước. Các nguyên tắc này là cơ sở hiến  
định để các quan nhà nước về lập pháp, hành pháp và pháp phát huy đầy đủ  
vai trò, trách nhiệm thực hiện hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền  
hạn được nhân dân giao cho mỗi quyền; hạn chế ngăn ngừa tình trạng lạm dụng  
quyền lực nhà nước, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Dựa trên các  
nguyên tắc đó, bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp sửa đổi đã những điều chỉnh  
để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan,  
bảo đảm sự phân công, phối hợp kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập  
pháp, hành pháp và pháp có hiệu lực, hiệu quả.  
Báo cáo chính trị Đại hội XII chỉ rõ: “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn  
với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước  
pháp quyền XHCN. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội,  
vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản  
đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức hội”.  
Xây dựng, hoàn thiện tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc  
được quy định trong Hiến pháp năm 2013 là nhiệm cụ cấp bách, cần nhanh chóng  
triển khai thực hiện. Đây cũng chính là biện pháp nhằm khắc phục khâu yếu nhất,  
thiếu nhất trong hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.  
Bên cạnh đó, nhiệm vụ, giải pháp mới của Đảng chỉ ra cũng xác định cần phải  
quản đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã  
10 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175  
17  
hội. Quan điểm này thể hiện rõ tính nhân văn trong xây dựng và hoàn thiện Nhà  
nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Để bảo đảm tính bền vững của pháp luật, kỷ  
cương hội, đồng thời vẫn bảo đảm tính nhân văn, nhân đạo, thì con người không  
chỉ cần được điều chỉnh, kiểm soát hành vi bằng luật, mà còn bằng cả lương tâm và  
trách nhiệm. Đây cũng chính là giải pháp nhằm khắc phục tình trạng xuống cấp  
đạo đức đang trở thành một vấn nạn khá nhức nhối ở nước ta hiện nay.  
“Xác định cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là  
cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện các  
quyền lập pháp, hành pháp, pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước thống nhất;  
xác định thẩm quyền trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chínhquyền địa  
phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”11. Nhiệm vụ, giải pháp này  
cũng nhằm hiện thực hóa một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong xây  
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta đã được hiến định trong Hiến  
pháp năm 2013. Kiểm soát quyền lực nhà nước vấn đề khó khăn phức tạp.  
Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt để phòng, chống sự tha hóa và lạm  
dụng quyền lực nhà nước, mặt khác là làm sao để không phải kiểm soát quyền  
lực nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có trong thực hiện  
chức năng của Nhà nước. Đây cũng chính là cơ sở để chúng ta tiếp tục đấu tranh  
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay  
bằng việc hoàn thiện các thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước.  
“Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở ở cấp  
huyện. Mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí  
đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ  
quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính”12. Đây giải  
pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, thông qua đó vừa hoàn  
thiện các hình thức dân chủ, vừa bảo đảm cho nhân dân thực sự được thực hiện  
quyền làm chủ của mình đối với Nhà nước và xã hội.  
11 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.180  
12 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.181  
18  
KẾT LUẬN  
Thực tiễn lịch sử thế giới đã chỉ rõ, vấn đề chính quyền nhà nước cốt tử của  
mọi cuộc cách mạng. Giành được chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó  
hơn nhiều. vậy, khi đã có chính quyền đòi hỏi đảng cầm quyền phải không  
ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh bảo đảm cho chính quyền đủ năng lực  
thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ sứ mệnh lịch sử của nó trong cải tạo xã  
hội cũ và xây dựng hội mới. Đối với Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt  
Nam - một thành quả vĩ đại được khai sinh từ thắng lợi của cách mạng Tháng Tám  
năm 1945; là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; thực hiện quản lý,  
điều hành xã hội bằng pháp luật. Trải qua hơn 73 năm xây dựng và phát triển, Nhà  
nước pháp quyền Việt Nam không ngừng được củng cố, hoàn thiện đã tỏ rõ là một  
Nhà nước ưu việt, tiến bộ được xây dựng trên nền tảng vững chắc của khối đại  
đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt khối liên minh giai cấp công nhân với giai  
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.  
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là chủ trương, đường lối  
có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu, khách  
quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở kế thừa những  
thành tựu cả về nghiên cứu luận lẫn thực tiễn triển khai xây dựng Nhà nước  
pháp quyền đã có, Đại hội XII đã nhiều phát triển mới về xây dựng và hoàn  
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cả trên phương diện hình thức trình  
bày, cách diễn đạt, cả trên phương diện nội dung các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu  
nhằm đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.  
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là nhiệm vụ của toàn bộ hệ  
thống chính trị của toàn dân. Trên cơ sở nắm vững đường lối, quan điểm của  
Đảng, mỗi tổ chức, cá nhân cần xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc đóng  
góp công sức, trí tuệ để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, góp  
phần củng cố chế độ, đưa nước ta hội nhập sâu rộng với quốc tế, ngày càng phồn  
vinh, phát triển.  
19  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Yêu cầu ca, báo Nhân Dân, ngày 30/1/1977.  
2. V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.121.  
Trích lại Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 18, Nxb CTQH, H 2002, tr. 575.  
3.  
4. Đảng Cng sn Vit Nam (2011) Văn kin Đại hi Đảng toàn quc ln thứ  
XI, Nxb Chính trquc gia, Hà Ni.  
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương  
5.  
Đảng, H.2016.  
6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã  
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ngày 17/03/2011.  
7. Xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - Từ  
luận đến thực tiễn. ThS. Trần Kim Cúc tạp chí cộng sản 16/1/2014.  
8. Giáo trình Chủ nghĩa duy vật lịch sử luận vận dụng (dùng cho đào tạo  
cán bộ chính trị cấp Trung đoàn), Nxb Quân đội nhân dân, 2016.  
20  
doc 20 trang yennguyen 31/03/2022 6385
Bạn đang xem tài liệu "Bài thu hoạch môn Triết học - Đề tài: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docbai_thu_hoach_mon_triet_hoc_de_tai_xay_dung_nha_nuoc_phap_qu.doc