Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .....................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................................4
I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN......................................................................................4
1. Khái niệm Tuần hoàn của tư bản...............................................................................4
2. Ba hình thái tuần hoàn của tư bản .............................................................................5
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ...............................................................................5
2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất ...........................................................................7
2.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa..........................................................................8
3. Điều kiện để tư bản có thể vận động liên tục ..........................................................26
1. Ý nghĩa nghiên cứu về lý luận.................................................................................29
2. Ý nghĩa thực tiễn: ....................................................................................................30
3. Định hướng vận dụng ..............................................................................................31
KẾT LUẬN .......................................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................34
1
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận tuần hoàn của tư bản được C.Mác nghiên cứu trong phần thứ nhất ở
quyển II của Bộ Tư bản, với tiêu đề: “Những biến hoá hình thái của tư bản và tuần
hoàn của những biến hoá hình thái ấy”. Trong phần này, C.Mác nghiên cứu sự vận
động của tư bản cá biệt. Trong sự vận động đó, tư bản lần lượt “mang” những hình
thái khác nhau: hình thái tiền; hình thái sản xuất; hình thái hàng hoá mà nó “khoác lấy
rồi lần lượt trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó”1.
Đối tượng nghiên cứu của phần này cũng đã được C.Mác đề cập một cách rõ ràng
thông qua kết cấu gồm 6 chương. Ba chương đầu nghiên cứu ba hình thái tuần hoàn
của tư bản xét một cách riêng biệt. Chương IV tổng hợp lại nghiên cứu sự vận động
của tư bản trong sự thống nhất của cả ba hình thái tuần hoàn đó. Ở bốn chương này,
C.Mác áp dụng phương pháp trình bày đi từ trừu tượng tới cụ thể, từ phân tích tới tổng
hợp. Trong bốn chương đầu: sự vận động của tư bản được phân tích qua các hình thái
tuần hoàn, phân tích về mặt logic; chương V và chương VI cũng phân tích sự vận động
tuần hoàn của tư bản, nhưng từ một góc độ khác, gần với thực tiễn, phân tích về mặt
lịch sử hiện thực. Như vậy, vận động hay tuần hoàn của tư bản được phân tích cả từ
góc độ logic và lịch sử.
Nghiên cứu mỗi hình thái tư bản, mỗi hình thái tuần hoàn của tư bản một cách
độc lập – để làm sáng tỏ đặc điểm, tính chất độc đáo của tư bản trong mỗi giai đoạn,
trong mỗi quá trình vận động tuần hoàn của tư bản. Nhưng sau khi nghiên cứu mỗi
hình thái của tuần hoàn một cách riêng biệt, phải nghiên cứu tổng hợp cả ba hình thái
của tuần hoàn trong mối tương quan, liên hệ lẫn nhau giữa chúng, để tìm ra được đặc
điểm chung của các hình thái, vì mỗi hình thái tuần hoàn vừa nêu lên đặc điểm, đặc
thù của nó, vừa che giấu đặc điểm, đặc thù của hình thái tuần hoàn khác. Đồng thời,
thông qua quá trình tổng hợp, có thể hiểu được một cách toàn diện đặc điểm tuần hoàn
của tư bản. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn của tư bản có ý
1 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 46
2
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, để từ đó có những định hướng
vận dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh hiện nay.
Trong phạm vi tiểu luận học phần Quá trình lưu thông Tư bản chủ nghĩa, học
viên thực hiện đề tài tiểu luận với chủ đề: “Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái
tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng”.
3
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
PHẦN NỘI DUNG
I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN
1. Khái niệm Tuần hoàn của tư bản
Lý luận tuần hoàn tư bản nghiên cứu hình thái vận động của tư bản, các giai
đoạn và các hình thái của tư bản trong quá trình vận động, tức nghiên cứu mặt chất
vận động của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản nghiên cứu sự vận động của tư bản cá biệt. Trong sự vận
động của mình, tư bản lần lượt “mang” những hình thái khác nhau, mà nó khác lấy
rồi lại trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó. Sở dĩ, nói tư bản là sự
vận động bởi, giá trị tư bản luôn luôn khoác lấy hình thái này, rồi trút bỏ đi để chuyển
sang hình thái khác. Nhưng sự vận động của tư bản là sự vận động vòng tròn và liên
tục, những vòng tuần hoàn không ngừng nối tiếp nhau. Vì vậy mỗi biến hóa hình thái
tư bản có thể vừa là điểm bắt đầu, vừa là điểm giữa, vừa là điểm kết thúc của quá
trình vận động liên tục của tư bản và quá trình vận động liên tục của tư bản đều phải
trải qua ba hình thái. Đó là sự vận động tuần hoàn của tư bản. Do đó, không những
có ba hình thái của tư bản mà còn có ba hình thái tuần hoàn của tư bản (mỗi hình thái
tư bản đều vận động tuần hoàn)
Ngoài ra, các hình thái tư bản không những nối tiếp nhau, mà còn tồn tại bên
cạnh nhau. Trong mỗi doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, tư bản đồng thời vừa tồn tại
dưới hình thái tư bản tiền tệ, vừa dưới hình thái tư bản sản xuất, vừa dưới hình thái
tư bản hàng hóa. Tư bản tồn tại dưới các hình thức nói trên đều đang ở trong trạng
thái vận động, tức là đang trong quá trình tuần hoàn của nó. Đồng thời, quá trình tuần
hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một
giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất và chúng thống nhất với nhau, trong đó, lĩnh vực
sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong mỗi giai đoạn, giá trị tư bản đều nằm trong
một hình thái đặc thù tương ứng với một chức năng nhất định. Trong sự vận động
ấy, giá trị ứng trước không những được bảo tồn, mà còn lớn lên, còn tăng thêm về
4
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
lượng nữa và đến giai đoạn kết thúc, giá trị ứng trước quay trở về chính ngay hình
thái ban đầu của nó.
Như vậy, tuần hoàn của tư bản là quá trình vận động của tư bản trải qua ba giai
đoạn, mang ba hình thái, thực hiện ba chức năng, để rồi quay trở lại điểm xuất phát
ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn lớn lên
2. Ba hình thái tuần hoàn của tư bản
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ
+ Công thức tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T - H... Sx ... H' - T'
+ Đặc điểm của tuần hoàn tư bản tiền tệ :
Một là, điểm xuất phát là T và kết thúc là T' nói lên rằng: giá trị trao đổi chứ
không phải giá trị sử dụng, là mục đích tự thân quyết định sự vận động. Chính vì vậy,
tuần hoàn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất: động cơ, mục đích của vận
động tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, T đẻ ra t. Trong tuần hoàn này, T là phương
tiện ứng ra trong lưu thông, T' là mục đích đạt được trong lưu thông, nên hình như
lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn; còn sản xuất chỉ là một khâu trung gian không thể
tránh được, một "tai vạ" cần thiết để làm ra T.
Hai là, trong tuần hoàn này, giai đoạn sản xuất biểu hiện như một thủ đoạn đơn
thuần để làm cho giá trị ứng trước tăng thêm giá trị; do đó, làm giàu để làm giàu là
mục đích tự thân của việc sản xuất.
Ba là, trong tuần hoàn này, việc giá trị đẻ ra giá trị thặng dư (m) không những
biểu hiện ra thành điểm đầu và điểm cuối của quá trình, mà còn trực tiếp biểu hiện
ra dưới hình thái chói lọi của tiền nữa.
Bốn là, tuần hoàn T... T' không nói lên rằng: khi tuần hoàn được lặp lại, thì lưu
thông của t tách rời lưu thông của T. Vì thế, nếu chúng ta tách riêng một vòng tuần
hoàn của tư bản tiền tệ mà xét, thì về mặt hình thức, nó chỉ biểu hiện quá trình tăng
thêm giá trị và quá trình tích luỹ mà thôi. Như vậy, quá trình tuần hoàn của tư bản là
5
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
sự thống nhất giữa lưu thông và sản xuất. C.Mác khẳng định: tư bản sinh ra trong lưu
thông, đồng thời không sinh ra trong lưu thông.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, che giấu nhất quan hệ
bóc lột TBCN; đồng thời nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong các hình
thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Mục tiêu và động cơ của tuần hoàn này: giá
trị tăng thêm giá trị, T đẻ ra t trực tiếp bộc lộ ra. Do đó, tuần hoàn của tư bản tiền tệ
là hình thái mang những đặc điểm chung của tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Nên
nó là chìa khóa để hiểu tuần hoàn của các hình thái khác. Mác viết “Vì vậy, tuần hoàn
của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, và chính do đó mà nó là hình thái nổi
bật nhất và đặc trưng nhất trong các hình thái của tuần hoàn của tư bản công
nghiệp ; mục tiêu và động cơ của tuần hoàn này – làm tăng thêm giá trị, làm ra tiền
và tích lũy tiền – trực tiếp biểu lộ ra trước mắt (mua để bán đắt hơn)”2. Tuần hoàn
của tư bản tiền tệ chỉ trở thành hình thái đặc thù của tuần hoàn tư bản công nghiệp
trong chừng mực một tư bản mới hoạt động được ứng ra lúc ban đầu bằng T, sau đó
thu về cũng dưới hình thái T. Mác đưa ra một kết luận: “Chừng nào mà tuần hoàn
của tư bản tiền tệ bao giờ cũng bao hàm việc làm cho giá trị ứng trước tăng thêm
giá trị, thì tuần hoàn đó bao giờ cũng là biểu hiện chung của tư bản công nghiệp”3.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có thể là tuần hoàn đầu tiên của một tư bản nhất định,
có thể là tuần hoàn cuối cùng, và nó có thể xem là hình thái của tổng tư bản xã hội.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, mà kết quả là T' = T + t có cái bề ngoài làm người
ta dễ bị nhầm lẫn; nó mang một tính chất lừa dối, do chỗ giá trị ứng trước đã tăng
thêm, giá trị tồn tại ở đây dưới hình thái ngang giá của nó là T. Tuần hoàn này không
nhấn mạnh việc giá trị tăng thêm giá trị như thế nào? mà nhấn mạnh hình thái tiền,
một lượng T lớn hơn được rút ra từ lưu thông. Vì vậy, dễ làm người ta lầm lẫn là lưu
thông đẻ ra giá trị lớn hơn. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ lặp đi lặp lại không ngừng,
thì trong nó đã bao hàm tuần hoàn của hình thái tư bản khác.
2 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95
3 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 96
6
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất
+ Công thức chung của tuần hoàn tư bản sản xuất: SX ... H' - T' - H ... SX
+ Đặc điểm của tuần hoàn tư bản sản xuất:
Một là, phản ánh sự hoạt động lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tư bản sản xuất.
Hai là, nó chỉ rõ tư bản hàng hóa từ quá trình sản xuất mà ra, là kết quả trực
tiếp của sản xuất, còn tư bản tiền tệ là kết quả của việc thực hiện tư bản hàng hóa,
đồng thời là phương tiện mua, chuẩn bị các yếu tố cho quá trình sản xuất mới. Nghĩa
là, tư bản tiền tệ chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản sản
xuất.
Ba là, tuần hoàn của tư bản sản xuất vạch rõ nguồn gốc của tư bản là quá trình
sản xuất mà ra. Nhưng nó không biểu thị việc sản xuất ra m. Dù là SX' hay SX (mở
rộng hay giản đơn) kết cục nó cũng chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết để làm chức
năng tư bản sản xuất, thực hiện quá trình tái sản xuất, nó không hề chỉ ra mục đích
vận động của tư bản là làm tăng giá trị. Do đó, người ta dễ lầm rằng mục đích của nó
chỉ là sản xuất, có trao đổi cũng là trao đổi sản phẩm để sản xuất được liên tục.
2.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa
+ Công thức chung của tuần hoàn tư bản hàng hóa: H' - T' - H ... SX ... H'
+ Đặc điểm của tuần hoàn tư bản hàng hóa:
Một là, khác với các hình thái tuần hoàn trước, trong tuần hoàn của tư bản hàng
hóa: toàn bộ lưu thông với hai giai đoạn của nó mở đầu tuần hoàn.
Hai là, khi tuần hoàn I và II lặp lại, thì ngay cả khi những điểm kết thúc T' và
SX' là khởi điểm của tuần hoàn mới, người ta cũng không còn thấy hình thái dưới đó
T' và SX' đã được sản sinh ra. Còn tuần hoàn III thì điểm xuất phát bao giờ cũng là
H', dù là tái sản xuất giản đơn vì tuần hoàn của tư bản hàng hóa không phải bắt đầu
đơn thuần bằng một giá trị - tư bản, mà bằng một giá trị - tư bản đã được tăng lên và
nằm dưới hình thái H. Do đó, ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của
7
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
giá trị - tư bản dưới hình thái hàng hóa, mà còn bao hàm cả tuần hoàn của m nữa, tức
ngay từ đầu nó đã biểu thị là hình thái của sản xuất hàng hóa TBCN
Ba là, xuất phát là H', kết thúc cũng là H'. Do đó, đặt ra vấn đề đòi hỏi phải thực
hiện H', tức đòi hỏi phải vận động liên tục
Bốn là, trong tuần hoàn này - khác với 2 tuần hoàn trước - điểm xuất phát là H'
(giá trị - tư bản đã được tăng thêm giá trị), chứ không phải giá trị - tư bản ban đầu
còn đang chờ tăng thêm giá trị. Như vậy, ngay từ điểm xuất phát H', nó đã biểu hiện
quan hệ TBCN vì ngay từ đầu tuần hoàn đã bao gồm cả tuần hoàn của giá trị - tư bản
lẫn tuần hoàn của giá trị thặng dư m
Năm là, trong tuần hoàn I và II: điểm kết thúc (T' và SX) là kết quả của sự
chuyển hóa hình thái tư bản trước đó. Còn trong tuần hoàn III: H' điểm kết thúc tuần
hoàn là kết quả của sự chuyển hóa không những đụng chạm đến hình thái chức năng
của tư bản, mà còn đụng chạm cả đến đại lượng giá trị của tư bản nữa. Sự chuyển
hóa là kết quả không phải của một sự đổi chỗ thuần tuý có tính chất hình thức thuộc
về quá trình lưu thông, mà là kết quả của một sự chuyển hóa hiện thực mà hình thái
sử dụng và giá trị của những thành phần hàng hóa của tư bản sản xuất đã trải qua
trong quá trình sản xuất.
Sáu là, trong tuần hoàn này (H' - T' - H ... SX ... H') thì H vừa là điểm xuất phát,
vừa là môi giới trung gian, vừa là điểm cuối cùng, điều đó chứng tỏ: sự vận động
này không phải là của một tư bản hàng hóa, mà là sự vận động xen kẽ của nhiều tư
bản hàng hóa cá biệt, nghĩa là sự vận động của tổng tư bản xã hội: các tư bản cá biệt
xen kẽ nhau, làm điều kiện cho nhau.
Bảy là, tuần hoàn của tư bản hàng hóa mang tính chất che giấu. Nó là hình thái
nổi bật tính liên tục của lưu thông. Song, do quá nhấn mạnh tính liên tục của lưu
thông hàng hóa, nên người ta có ấn tượng rằng: hình như tất cả mọi yếu tố cho sản
xuất đều do lưu thông hàng hóa mà ra và chỉ gồm có hàng hóa mà thôi.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA BA HÌNH THÁI TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN
8
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
Trên cơ sở phân tích các hình thái, C.Mác đã dành ra chương 4 trong Quyển II
của Bộ Tư bản để tổng hợp 3 hình thái tuần hoàn, nhưng ở đây không phải là sự tổng
hợp giản đơn, mà là sự thống nhất biện chứng 3 hình thái; đồng thời phát hiện những
đặc điểm mới.
Mác viết: “Nếu lấy Lt để chỉ tổng quá trình lưu thông, thì ba hình thái của tuần
hoàn có thể được trình bày như sau:
I) T-H…Sx…H’-T’
II) Sx…Lt…Sx
III) Lt…Sx(H’)
Nếu chúng ta xét toàn bộ cả ba hình thái, thì tất cả các tiền đề của quá trình
tuần hoàn đều là kết quả của nó, là tiền đề do bản thân nó tạo ra. Mỗi một yếu tố
đều là điểm xuất phát, điểm quá độ và là điểm quay trở lại. Toàn bộ quá trình biểu
hiện ra thành sự thống nhất của quá trình sản xuất và quá trình lưu thông; quá trình
sản xuất trở thành khâu trung gian của quá trình lưu thông và ngược lại”4
1. Tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của sản xuất và lưu
thông
“Bây giờ chúng ta nghiên cứu toàn bộ vận động T-H … SX … H’-T’, hay hình
thái đầy đủ của nó:
SLĐ
T- H
… SX … H’(H+h) - T’(T+t)
TLSX
Ở đây, tư bản là một giá trị thông qua một chuỗi liên tiếp những biến hoá có quan
hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau, một chuỗi những biến hoá hình thái cấu thành cũng
một chuỗi thời kỳ hay giai đoạn giống như thế trong tổng quá trình. Trong các giai
đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông, còn một giai đoạn nữa thì thuộc
4 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 154
9
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
lĩnh vực sản xuất. Trong mỗi giai đoạn như vậy, giá trị tư bản đều nằm trong một hình
thái đặc thù tương ứng với một chức năng đặc thù, đặc biệt”5.
Như vậy, sự vận động này trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu T - SX và giai
đoạn cuối H’- T’ nằm trong lưu thông hàng hoá, còn giai đoạn SX - H’ thuộc lĩnh
vực sản xuất hàng hoá TBCN. Cả ba giai đoạn này thống nhất với nhau hay nói cách
khác sản xuất và lưu thông thống nhất với nhau: sản xuất làm trung gian cho lưu
thông và ngược lại.
C.Mác còn viết: “Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình
thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác. Nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn thứ nhất T- H, thì tư
bản tiền tệ sẽ đọng lại thành tiền tích trữ, nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn sản
xuất thì một bên, tư liệu sản xuất sẽ nằm im không hoạt động và trong khi đó ở bên
kia, sức lao động sẽ không có việc làm, nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn cuối
cùng H’- T’, thì hàng hoá không bán được bị chất đống lại sẽ làm nghẽn luồng lưu
thông”6.
Giai đoạn thứ nhất: giai đoạn mua, là giai đoạn thực hiện hành vi T - H:
Trong giai đoạn này, tư bản xuất hiện dưới hình thái tiền, tiền khoác áo tư bản
và được gọi là tư bản tiền tệ. Trong hành vi T - H, ngoài chức năng làm phương tiện
mua thông thường, tiền còn làm chức năng của tư bản. Nói cách khác hành vi chung
của lưu thông hàng hoá trở thành một giai đoạn trong tuần hoàn của tư bản, hay T
trở thành tư bản.
C.Mác đã viết: “T - H biểu thị việc chuyển hoá hoá món tiền thành một số hàng
hoá; đối với người mua, đó là việc chuyển hoá tiền của người ấy thành hàng hoá; đối
với người bán, đó là việc chuyển hoá hàng hoá của người ấy thành tiền. Hành vi lưu
5 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 82-83
6 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 83
10
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
thông chung ấy của hàng hoá đồng thời trở thành một giai đoạn hoạt động nhất trong
vòng tuần hoàn độc lập của một tư bản cá biệt”7.
Sở dĩ C.Mác nói như vậy là vì tiền được sử dụng để mua tư liệu sản xuất và sức
lao động với mục đích sản xuất ra giá trị thặng dư.
Ở trang 47 Ông viết tiếp: “Nếu chúng ta dùng SLĐ để chỉ sức lao động và TLSX
để chỉ tư liệu sản xuất, thì số hàng hoá nhà tư bản mua sẽ biểu thị thành:
SLĐ
H = SLĐ + TLSX, hay gọn hơn T- H
TLSX
SLĐ
Do đó, xét về nội dung, T- H biểu hiện thành T- H
TLSX
Như thế có nghĩa là T- H phân thành T - SLĐ và T- TLSX, số tiền T chia làm
hai phần, một phần mua SLĐ và một phần mua TLSX”8.
Nghĩa là: bản thân việc mua H, bản thân chức năng lưu thông của T không làm
cho T thành tư bản, không làm cho T- H thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản.
T chỉ trở thành tư bản, hành vi T- H chỉ trở thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản,
khi trong số H mà T mua được phải có một hàng hoá đặc biệt- hàng hoá sức lao động.
C.Mác viết: “T- SLĐ là yếu tố đặc trưng trong sự chuyển hoá của tư bản tiền tệ
thành tư bản sản xuất, vì đó là điều kiện căn bản để cho giá trị ứng ra dưới hình
tháitiền được thực tế chuyển hoá thành tư bản, thành giá trị đẻ ra giá trị thặng dư”9.
7 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 46,47
8 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 47
9 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 51
11
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
SLĐ
Như vậy, trong nội dung vật chất của hành vi T- H bao gồm
TLSX
thì T - SLĐ được coi là đặc trưng tư bản chủ nghĩa. Nhưng T - SLĐ là đặc trưng tư
bản chủ nghĩa ở giai đoạn mua: không phải ở chỗ có thể mua được sức lao động bằng
T, mà là do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho sức lao động biến thành
hàng hoá trước khi dùng T mua được nó, vì khi sức lao động trở thành hàng hoá thì
việc mua hàng hoá sức lao động giống như việc mua các hàng hoá khác.
Ở đây, không phải bản chất của T đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa mà trái
lại chính sự tồn tại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mới làm cho T trở thành
tư bản. Điều đó có nghĩa rằng, chính trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã
bị tách rời nhau, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ giai cấp giữa tư bản và
lao động làm thuê đã có, thì T của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi T - H mới
là tư bản tiền tệ hay nói chính xác hơn là khoác áo tư bản tư bản tiền tệ.
Hành vi T - SLĐ là hành vi đặc trưng để T mang quan hệ tư bản chủ nghĩa, tức
T- SLĐ là điều kiện để T chuyển hoá thành tư bản.
Kết quả của giai đoạn mua, tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản xuất, thực hiện chức năng của tư bản sản
xuất.
Kết quả của giai đoạn 1: T - H, là bước đầu của giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản
xuất.
Trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa: T - H đã được thực hiện, thì tất yếu
phải được bổ sung bằng H’- T’, nhưng trước khi có H’- T’ thì buộc tư bản phải đi
vào sản xuất, thì buộc người mua - tức nhà tư bản phải tiêu dùng sản xuất những
hàng hoá đã mua được là sức lao động và tư liệu sản xuất. Bởi vì muốn đạt được mục
đích của mình, thì nhà tư bản phải phải tiêu dùng những hàng hoá đã mua được để
12
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
sản xuất ra hàng hoá mới có giá trị lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất ra nó. Do đó,
tiếp theo giai đoạn một tất yếu phải dẫn đến giai đoạn hai: giai đoạn sản xuất.
Ở đây C.Mác đã viết: “Do sự chuyển hoá của tư bản tiền tệ thành tư bản sản
xuất, giá trị tư bản mang một hình thái hiện vật trong đó, nó không thể tiếp tục lưu
thông được nữa mà phải đi vào tiêu dùng, cụ thể là đi vào tiêu dùng sản xuất. Việc
tiêu dùng sức lao động, tức là lao động chỉ có thể thực hiện được trong quá trình lao
động thôi… Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là bước vào giai đoạn thứ hai,
giai đoạn sản xuất của tư bản”10.
TLSX
Quá trình này được diễn ra như sau: H
… SX … H’
SLĐ
Sản xuất nói chung và sản xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng bao giờ cũng là quá
trình kết hợp hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Nhưng tại sao sản xuất ở
đây lại là sản xuất tư bản chủ nghĩa và tại sao sản xuất ở đây lại là một giai đoạn của
tuần hoàn tư bản? Vì:
Thứ nhất, nét đặc trưng tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn này là ở chỗ: Trước khi
buớc vào sản xuất, hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất tách rời nhau và là
những nhân tố trong trạng thái khả năng, muốn sản xuất thì hai yếu tố đó phải được
kết hợp với nhau, nhà tư bản đã có công là ứng tư bản của mình ra để thực hiện sự
kết hợp hai yếu tố này. Tư bản được ứng ra mua hai yếu tố đó rồi lại kết hợp lại trong
các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
C.Mác viết: “Dù hình thái xã hội của sản xuất là những hình thái nào chăng nữa,
thì người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản
xuất. Nhưng chừng nào còn bị tách rời nhau, thì cả hai cũng vẫn chỉ là những nhân
tố trong trạng thái khả năng thôi. Nói chung, muốn sản xuất thì hai cái đó phải kết
hợp với nhau”11.
10 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 59
11 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 62
13
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động từ chỗ là những yếu tố trôi nổi trên thị
trường, chưa phải là tư bản, sau khi kết thúc giai đoạn 1, giờ đây trở thành hình thái
tồn tại của giá trị tư bản ứng trước, được phân thành những yếu tố khác nhau của tư
bản sản xuất. Quá trình sản xuất ở xã hội tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải có sự vận
động của tư bản, chức năng sản xuất ở đây trở thành một chức năng của tư bản- đây
chính là tính xã hội đặc thù.
“Vậy sức lao động của con người không phải là tư bản do bản chất của nó, cũng
giống hệt như tư liệu sản xuất không phải là do bản chất của chúng. Chỉ trong những
điều kiện phát triển lịch sử nhất định, thì những tư liệu sản xuất mới có tính xã hội
đặc thù ấy”12.
Chức năng tư bản sản xuất chính là chức năng tạo tạo ra giá trị thặng dư, vì quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tiêu dùng tư liệu sản xuất và sức lao động
để tạo ra giá trị sử dụng mới và một giá trị mới lớn. Nghĩa là, ở giai đoạn này tiến hành
sản xuất không phải là hàng hoá, mà là hàng hoá chứa đựng giá trị thặng dư (m), tức
H’ = giá trị tư bản sản xuất + giá trị thặng dư.
“Lao động thặng dư của sức lao động là lao động không công cho nhà tư bản,
nghĩa là một giá trị mà nhà tư bản không phải trả bằng vật ngang giá. Do đó, sản
phẩm không phải chỉ là hàng hoá, mà là một hàng hoá đã mang trong mình một giá
trị thặng dư. Giá trị của nó = Sx + Giá trị thặng dư, tức bằng giá trị của tư liệu sản
xuất Sx đã tiêu dùng để chế tạo ra nó cộng với giá trị thặng dư do tư bản sản xuất
ấy đẻ ra”13.
Kết thúc giai đoạn 1: T - H, thì tư liệu sản xuất và sức lao động không còn đơn
thuần là các yếu tố của sản xuất, mà chúng đã mang trong mình giá trị tư bản ứng
trước, chúng đã trở thành hình thái tư bản sản xuất của tư bản.
Thứ hai, tính chất và phương thức kết hợp hai yếu tố sản xuất là cái để phân
biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, phương thức đặc thù kết
12 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 63
13 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 66
14
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
hợp hai yếu tố này do tư bản thực hiện không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của
sự vận động của tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản, sự kết hợp hai yếu tố thực hiện trong
tay nhà tư bản với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất sản xuất của tư bản của
hắn. Vì vậy quá trình sản xuất ở đây trở thành một chức năng của tư bản, trở thành
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực hiện một giai đoạn tuần hoàn của tư bản.
Vì giá trị tư bản buộc phải đi qua giai đoạn này để T tự lớn lên.
“Tính chất và phương thức đặc thù trong việc thực hiện sự kết hợp ấy, chính là
cái phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau của chế độ xã hội. Trong trường hợp đang
nghiên cứu, tình trạng người công nhân tự do bị tách khỏi tư liệu sản xuất của anh ta
là điểm xuất phát đã cho sẵn trước, và chúng ta đã thấy hai yếu tố ấy kết hợp với nhau
trong tay nhà tư bản như thế nào và trong những kinh doanh nào, cụ thể là kết hợp
với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất sản xuất của tư bản của hắn. Vì vậy, cái
quá trình hiện thực trong đó những nhân tố hình thành hàng hoá - nhân tố người và
nhân tố vật- kết hợp với nhau như thế, tức là bản thân quá trình sản xuất trở thành
một chức năng của tư bản”14.
Như vậy khi hoàn thành giai đoạn chuyển hoá này, tiền đã trở thành tư bản thực
sự vì nó được rút ra từ sản xuất không những giá trị cũ mà còn thêm giá trị thặng dư
với tư cách là con đẻ của nó.
Kết quả, kết thúc giai đoạn 2 là tư bản sản xuất chuyển thành tư bản hàng hoá.
Giai đoạn thứ ba: giai đoạn bán, trong giai đoạn này nhà tư bản thực hiện
hành vi H - T’
Kết thúc giai đoạn thứ hai: giá trị tư bản từ hình thái tư bản sản xuất biến
thành hình thái tư bản hàng hoá và tư bản chưa thể ngừng vận động. Bởi vì: cả giá
trị tư bản ứng trước lẫn giá trị thặng dư đều đang tồn tại dưới dạng sản phẩm, dưới
dạng giá trị sử dụng cần cho người khác, do đó tư bản với tư cách tư bản đang vận
động, tất yếu phải tiến hành một giai đoạn biến hoá hình thái nữa, tức chuyển hoá
14 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 62
15
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
giá trị dưới hình thái hàng hoá thành tiền. Nhưng tại sao ở đây lưu thông H trở
thành một chức năng của tư bản? H’- T’ trở thành một giai đoạn tuần hoàn của tư
bản? Bởi vì:
Thứ nhất, giống như mọi hàng hoá, H trong chủ nghĩa tư bản được ném vào
lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng thông thường của H là bán để lấy T nhằm
thực hiện giá trị H
Thứ hai, điểm đặc trưng tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, ngoài việc thực hiện giá trị
H, chức năng quan trọng hơn của tư bản hàng hoá là thực hiện giá trị thặng dư được
tạo ra trong sản xuất.
Như vậy, ngay khi vừa mới được sản xuất ra, hàng hoá đã là tư bản hàng hoá
với tư cách là hình thái tồn tại chức năng của giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị vì
ngay sau khi sản xuất, nó đã là H’ có giá trị = giá trị tư bản ứng trước + giá trị thặng
dư.
“H’ biểu hiện một quan hệ giá trị - quan hệ giữa giá trị của sản phẩm hàng hoá
với giá trị của tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất ra sản phẩm hàng hoá đó; do đó H’
nói lên rằng giá trị của nó gồm có giá trị của tư bản và giá trị thặng dư”15.
Ở đây cần lưu ý, H chỉ có thể làm chức năng tư bản chừng nào mà trước khi đi
vào lưu thông, nó đã mang tính chất tư bản, đã có sẵn từ trong quá trình sản xuất. H
trở thành H’ là do lượng giá trị của H’ lớn hơn giá trị của tư bản sản xuất (hàng hoá)
đã tiêu dùng khi sinh ra nó (H’= H + h). Nên khi tiến hành trao đổi theo nguyên tắc
ngang giá thì H’ cũng thu về T’, nghĩa là thu được số t trội hơn số tiền ứng ra ban
đầu. Chính chức năng thực hiện giá trị thặng dư này (h - t) đã làm cho hành vi H’-
T’ trở thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản.
Kết thúc giai đoạn ba: giá trị tư bản từ hình thái tư bản hàng hoá biến hoá thành
tư bản tiền tệ.
15 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 66
16
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
Kết thúc một vòng tuần hoàn thì mục đích của vận động tư bản được thực hiện:
giá trị tư bản trở lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn trước. vì vậy, đến đây,
tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả 3 giai đoạn với ba biến hoá hình thái
chúng ta có công thức
SLĐ
T-H
… SX … H’- T’
TLSX
Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi
biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Có bao nhiêu biến hoá
hình thái là có bấy nhiêu giai đoạn của quá trình vận động của tư bản. Trong các giai
đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực
sản xuất.
Trong công thức trên chúng ta thấy có hai hàng hoá khác nhau H và H’, xét về
lượng giá trị thì H’ lớn hơn H, lượng giá trị tăng lên đó là do quá trình sản xuất mà
ra, còn trong các giai đoạn lưu thông phải có giá trị bằng nhau tồn tại cùng một lúc
đối diện với nhau và thay thế lẫn nhau. Nghĩa là, sự biến đổi về đại lượng của giá trị
chỉ nằm trong phạm vi biến hoá hình thái của tư bản sản xuất trong giai đoạn sản
xuất, tức trong quá trình sản xuất. Bởi vậy, quá trình sản xuất là sự biến hoá hình thái
hiện thực của tư bản. Còn trong các giai đoạn lưu thông chỉ là những biến hoá hình
thái có tính chất hình thức
Qua sự phân tích 3 giai đoạn trên, chúng ta thấy quá trình tuần hoàn của tư bản
là sự thống nhất của cả 3 giai đoạn hay là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông.
Nếu chỉ xét hai giai đoạn T - H và H’ - T’ thì lưu thông tư bản là một bộ phận của
lưu thông chung của hàng hoá. Nhưng tuần hoàn của tư bản không những thuộc về
lĩnh vực lưu thông mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất, nên vòng tuần hoàn của tư bản
là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông.
17
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
“Vậy, quá trình tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và sản
xuất, nó bao hàm cả hai. Chừng nào mà hai giai đoạn T - H, H’ - T là những hành
vi của lưu thông thì lưu thông của tư bản là một bộ phận của lưu thông chung của
hàng hoá. Nhưng trong chừng mực chúng là những khâu, những giai đoạn có những
chức năng nhất định trong tuần hoàn của tư bản - tuần hoàn không những thuộc về
lĩnh vực lưu thông mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất nữa- thì tư bản hoàn thành
vòng tuần hoàn của bản thân nó trong lĩnh vực lưu thông chung của hàng hoá”16.
2. Sự vận động thống nhất biện chứng của ba hình thái tuần hoàn:
Đây là một quá trình liên tục không ngừng và đứt quãng không ngừng. Bởi lẽ,
trong quá trình vận động liên tục không ngừng, bản thân tuần hoàn lại làm cho tư
bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định để thực
hiện chức năng của mình.
T - H ... SX ... H' - T' - H ... SX ... H' - T' - H ... SX ... H' ..
Sự vận động của ba hình thái tuần hoàn có sự kế tục nhau trong thời gian và sắp
xếp kề nhau trong không gian hay tồn tại kề nhau trong không gian để được liên tục
vận động trong thời gian (sự thống nhất ba hình thái tuần hoàn đòi hỏi 3 tuần hoàn
phải tồn tại cùng một thời gian, trong không gian thì xen kẽ nhau):
T-H … SX … H' - T' - H … SX … H' - T' - H … SX …
T - H ... SX ... H' - T'
SX ... H' - T' - H' ... SX
H' - T' - H ... SX ... H’
“Cả ba tuần hoàn đều có một điểm chung là: chúng đều lấy việc làm tăng giá
trị làm mục đích có tính chất quyết định, làm động cơ”17. Và tổng tuần hoàn là sự
thống nhất hiện thực của ba hình thái tuần hoàn. Nếu xét riêng từng hình thái tuần
hoàn, thì mỗi hình thái tuần hoàn chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách
phiến diện làm nổi bật mặt bản chất này và che giấu mặt bản chất khác của sự vận
16 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95
17 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 154
18
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
động của tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần
hoàn, thì mới nhận thức được đầy đủ sự vận động hiện thực của tư bản công nghiệp,
mới hiểu đúng bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận
động của nó
Vì thế, tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp, trong sự liên tục của nó,
không những là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông, mà còn là sự thống nhất
của cả ba tuần hoàn của nó nữa. Chỉ có trong sự thống nhất của cả ba tuần hoàn, thì
sự liên tục của tổng quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp mới thực hiện được.
Trên thực tế, mỗi tư bản công nghiệp cá biệt đều ở trong cả ba tuần hoàn cùng
một lúc và nằm cạnh nhau trong không gian. Ba hình thái tuần hoàn đều không ngừng
diễn ra bên cạnh nhau, kế tiếp nhau. Và chỉ có sự thống nhất cả ba hình thái tuần
hoàn thì quá trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành một cách liên tục không
ngừng.
Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi cả ba tuần hoàn
chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một tuần hoàn của hình thái nào đó ngừng trệ,
thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị phá hoại. Song, muốn bảo đảm sự tuần hoàn không ngừng
của TB, bảo đảm cho TB liên tục chuyển hóa hình thái qua các giai đoạn kế tiếp
nhau, thì phải có đủ hai điều kiện:
- Thứ nhất, toàn bộ TB phải phân ra làm ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả ba
hình thái.
- Thứ hai, mỗi bộ phận TB ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng
liên tục trải qua ba hình thái, và ba giai đoạn vận động.
Hai điều kiện này quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề
cho nhau. "Vì thế, chỉ có thể hiểu TB là một sự vận động, chứ không phải là một vật
đứng yên"18.
18 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 162
19
Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN
Văn Công Vũ
Chi khi có sự sắp xếp kề nhau của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời ở cả ba
hình thái, thì mới có sự kế tục nhau của các bộ phận tư bản ấy ; ngược lại, cũng chỉ
khi các hình thái tư bản kế tục nhau không ngừng, thì tư bản mới tồn tại đồng thời ở
cả ba hình thái được.
Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp mỗi hình thái của tư bản đều
có thể làm điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn, tạo nên các hình thái tuần hoàn
khác nhau của tư bản công nghiệp.
Tuần hoàn của tư bản - tiền tệ: T - H…Sx …H’- T’ hay: T - T’
Mở đầu và kết thúc đều dưới hình thái tiền. Sự vận động của tư bản biểu hiện
ra là sự vận động của tiền. Hàng hoá hay sản xuất chỉ là những yếu tố trung gian, chỉ
là “những tai vạ cần thiết” để đẻ ra tiền. Trong T - T’ mọi quá trình trung gian đều
biến mất, quan hệ bóc lột của tư bản với lao động làm thuê bị che giấu, hình như lưu
thông đẻ ra giá trị lớn hơn.
Hình thái tuần hoàn này phản ánh rõ rệt nhất mục đích, động cơ vận động của
tư bản là làm tăng giá trị, là đem lại giá trị thặng dư. Hơn nữa, giá trị thặng dư lại
biểu hiện dưới hình thức chói lọi nhất của nó là hình thái tiền. Bởi vậy, T - T’ là hình
thái biểu hiện phiến diện nhất, che dấu nhất, nhưng cũng đặc trưng nhất, nối bật nhất
cho sự vận động của tư bản.
C.Mác đã viết: “Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, và
chính do đó mà nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong các hình thái
của tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Mục tiêu và động cơ của tuần hoàn này- làm
tăng thêm giá trị, làm ra tiền và tích luỹ tiền- trực tiếp biểu lộ ra trước mắt (mua để
bán đắt hơn)”19.
Tư bản tiền tệ xuất hiện trong lưu thông chung của hàng hoá với tư cách một
số tiền ứng ra và một số tiền quay về lớn hơn, đã gây ra sự nhầm lẫn về khả năng tự
đẻ ra tiền của tiền
19 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tieu_luan_phan_tich_moi_quan_he_giua_ba_hinh_thai_tuan_hoan.docx