Tiểu luận Những thành tựu nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

PHẦN MỞ ĐẦU  
Nghiên cứu về lịch sử các học thuyết kinh tế luôn là một trong những công  
việc đầu tiên đối với những ai muốn tìm hiểu về kinh tế học. Cũng như vậy, “Lịch  
sử các học thuyết kinh tế nâng cao” là môn học chuyên ngành đầu tiên của các học  
viên cao học Kinh tế chính trị K25 chúng tôi, sau khi học xong 2 môn chung là Triết  
học Mác – Lênin và Ngoại ngữ. Đây một môn khoa học hội nghiên cứu hệ  
thống các quan điểm về kinh tế của các giai cấp, các trường phái trong các hình thái  
kinh tế - xã hội trong lịch sử.  
Như các môn học khác, sau khi học xong môn học, chúng tôi sẽ một bài  
tiểu luận môn học, với môn học này, đề tài tiểu luận của tôi là: “Những thành tựu  
nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Ý nghĩa luận thực  
tiễn”.  
Với đề tài tiểu luận này, tôi tìm hiểu với cấu trúc mục lục như sau:  
MỤC LỤC  
 
PHẦN NỘI DUNG  
I. KHÁI NIỆM ĐIỀU TIẾT THU NHẬP VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐẶC  
ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC:  
1. Khái niệm “điều tiết thu nhập”:  
Ngày nay, chúng ta có thể hiểu “điều tiết thu nhập” một bộ phận của hệ  
thống thuế, thuế thu nhập cá nhân cũng có tác dụng điều tiết vĩ đối với nền kinh  
tế. Thuế thu nhập cá nhân điều tiết trực tiếp thu nhập nên một mặt tác động trực tiếp  
đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của cá nhân bị giảm, làm cho  
cầu hàng hóa, dịch vụ giảm sẽ tác động đến sản xuất. Đối với nước ta, trong tương  
lai, khi mà diện đánh thuế được mở rộng, vai trò điều tiết thu nhập của thuế thu nhập  
cá nhân sẽ được phát huy có hiệu quả hơn.  
Ta có thể hiểu khái niệm “điều tiết thu nhập” như sau: “Điều tiết thu nhập là  
một dạng phân phối lại, khi quá trình phân phối không mang lại lợi ích cho đời sống  
của nhân dân thì việc điều tiết điều đương nhiên. Điều tiết giúp cho quá trình phân  
phối được hoàn thiện hơn, tuy nhiên, các vấn đề trong xã hội luôn biến động không  
ngừng, chính vì vậy, việc điều tiết lại rất quan trọng cần nhiều thời gian để việc  
điều tiết được toàn dân chấp nhận, bởi khi một luật ra đời thì có rất nhiều ý kiến khác  
nhau xung quanh vấn đề được đặt ra và cần thời gian để giải quyết. thế ta phải  
tìm hiểu về phân phối khi đó ta mới biết được rằng phân phối đã làm được những gì  
điều tiết mang lại những ích lợi gì khi mà việc phân phối không đạt hiệu quả.  
Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội một vấn đvô  
cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất  
phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện  
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.  
góc độ vấn đề tiểu luận này, chúng ta sẽ chỉ ra những thành tựu của các học  
thuyết trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Như vậy, vấn đề điều tiết thu nhập  
của các học thuyết trước C. Mác được thể hiện các trường phái: kinh tế chính trị  
học cổ điển, kinh tế chính trị tầm thường và kinh tế chính trị tiểu tư sản. Ta sẽ lần  
lượt tìm hiểu về các trường phái này.  
2. Hoàn cảnh ra đời đặc điểm của các học thuyết trước C. Mác:  
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:  
2.1.1. Lịch sử ra đời:  
Kinh tế chính trị cổ điển (hay trường phái kinh tế học cổ điển) một trong  
những xu hướng tư tưởng kinh tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát  
           
triển các học thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn  
lưu giữ ý nghĩa đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt  
đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVIII đến nửa  
cuối thế kXIX.  
Kinh tế chính trị cổ điển ra đời trong bối cảnh:  
Về kinh tế, sự phát triển của công trường thcông, đặc biệt là ngành dệt, sau  
đó là ngành công nghiệp khai thác, sự trỗi dậy của lực lượng doanh nghiệp trong lĩnh  
vực sản xuất, đẩy hoạt động buôn bán và cho vay xuống hàng thứ yếu. Khi trọng tâm  
của kinh tế được chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất trực tiếp, thì các luận  
thuyết của chủ nghĩa trọng thương cũng bị mất sức thuyết phục. Giai cấp tư sản ngày  
càng nhận thấy muốn làm giàu, phải sử dụng lao động làm thuê, lao động làm thuê  
nguồn gốc thật sự của sự giàu có. Từ đó, nhiều vấn đề kinh tế mới nảy sinh đòi  
hỏi phải được giải thích.  
Về hội, sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến, cách  
mạng tư sản diễn ra Hà Lan, Anh rồi lan rộng ra các nước châu Âu khác, tạo ra  
tình hình mới về kinh tế và chính trị. Cần phải luận giải cơ sở ra đời, tồn tại và phát  
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.  
Về tư tưởng, những thành tựu khoa học tiến bộ như triết học duy vật, toán học,  
vật học… có tác dụng đấu tranh phá bỏ chế độ phong kiến, mở đường cho phương  
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, tạo điều kiện cho tư tưởng kinh tế mới của giai  
cấp tư sản phát triển, trong đó tư tưởng kinh tế của trường phái cổ điển.  
Kinh tế chính trị học cổ điển học thuyết kinh tế của giai cấp tư sản trong  
thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu về nguồn gốc  
của sự giàu có và cách thức làm tăng của cải trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ  
nghĩa.  
Người đại diện đầu tiên và được xem là thủy tổ của trường phái cổ điển là  
William Petty (1623 – 1687), người Anh với những công trình khoa học của ông  
chuyên về lĩnh vực thuế, hải quan và thống kê. Ông là người được Các Mác đánh giá  
cao qua các phát minh khoa học kinh tế.  
Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith (1723 – 1790),  
David Ricardo (1772 – 1823), John Stuart Mill (1806 – 1873). Quan điểm của họ,  
giống như các nhà nghiên cứu trước đó, là khoa học về sự giàu có và cách thức nhân  
rộng của cải lên.  
2.1.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học cổ điển:  
 
Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh tế của trường phái cổ điển chuyển đối  
tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất, nghiên cứu các vấn đề kinh tế  
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu hay nghiên cứu những vấn đề  
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn tự do cạnh tranh. Điểm  
xuất phát trong nội dung nghiên cứu của họ phạm trù lao động. Nhờ đó, các nhà  
kinh tế của trường phái cổ điển đã biến kinh tế chính trị thành một môn khoa học  
thực sự.  
Lần đầu tiên các nhà kinh tế của trường phái cổ điển xây dựng hệ thống phạm  
trù, quy luật của nền kinh tế thị trường, như: giá trị, giá cả, cung, cầu, lưu thông, cạnh  
tranh, tiền công, lợi nhuận, thuế, địa tô… Trong đó, phạm trù giá trị được xem là  
mấu chốt của phân tích kinh tế, gốc rễ để phát sinh các phạ trù kinh tế khác; và  
phạm trù giá trị trao đổi là trung tâm của nghiên cứu kinh tế.  
Lần đầu tiên trường phái kinh tế chính trị cổ điển áp dụng phương pháp trừu  
tượng hóa trong nghiên cứu các hiện tượng, quá trình kinh tế để tìm ra các mối quan  
hệ nhân quả, vạch ra bản chất và các quy luật vận động của quan hệ sản xuất tư bản  
chủ nghĩa; đề xuất áp dụng các phương pháp: logic, trừu tượng hóa, nguyên nhân –  
kết quả, suy diễn, quy nạp trong nghiên cứu kinh tế. Đây những phương pháp  
nghiên cứu khoa học tiến bộ. Bằng hệ thống phạm trù, quy luật kinh tế đã được  
xây dựng, kinh tế chính trị cổ điển đã đặt nền móng cho khoa học kinh tế sau này.  
Các nhà kinh tế của trường phái cổ điển ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế. Tư  
tưởng cơ bản của họ tự do sản xuất, tdo kinh doanh, tự do cạnh tranh, tôn trọng  
quy luật kinh tế chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.  
Những quan điểm luận của các nhà kinh tế chính trị cổ điển chưa thật nhất  
quán, còn trộn lẫn giữa các xu hướng tư tưởng, một mặt là khoa học muốn đi sâu vào  
bản chất các hiện tượng, quá trình kinh tế, mặt khác lại tầm thường chỉ dùng ở việc  
liệt kê, mô tả hời hợt các hiện tượng bề ngoài rồi đưa ra kết luận thiếu căn cứ. Học  
thuyết còn mang tính chất siêu hình, phi lịch sử.  
2.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:  
2.2.1. Lịch sử ra đời:  
Đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, cuộc khủng  
hoảng kinh tế 1825 mở đầu cho các cuộc khủng hoảng có chu kỳ. Sau nước Anh,  
phương thức sản xuất TBCN cũng được xác lập ở các nước khác. Từ năm 1830, sự  
thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được xác lập ở Anh và Pháp, nhưng giai cấp  
sản cũng ngày càng lớn mạnh, phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự  
giác, nay mang tính chất chính trị, đe dọa sự tồn tại của CNTB.  
   
Việc xuất hiện những hình thái khác nhau của CNXH không tưởng tiêu biểu  
là Saint Simon, M. Fourier và R. Owen đã phê phán kịch liệt chế độ tư bản gây tiếng  
vang trong giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản cần một luận để chống lại CNXH  
không tưởng bảo vệ CNTB. Trước bối cảnh đó, kinh tế chính trị tầm thường xã  
hội đã biểu hiện sự phản ứng của giai cấp tư sản đối với phong trào cách mạng và  
những tư tưởng của CNXH không tưởng.  
2.2.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học tầm thường:  
Thứ nhất, nếu các nhà kinh tế học tư sản cổ điển đã tìm toàn bộ hiện thực và  
nội tại của những quan hệ sản xuất trong xã hội tư sản thì KTCT tầm thường chỉ xem  
xét hệ thống hóa các hiện tượng bề ngoài, không nghiên cứu bản chất bên trong của  
các hiện tượng kinh tế.  
Thứ hai, nếu KTCT cổ điển với phương pháp duy vật (tuy còn siêu hình), xem  
xét khách quan các hiện tượng nghiên cứu, vạch ra quy luật vận động của nền sản  
xuất, thì KTCT học tầm thường lại duy tâm chủ quan. Xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi  
ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho CNTB một cách có ý thức.  
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản:  
2.3.1. Lịch sử ra đời:  
Kinh tế chính trị tiểu tư sản ra đời tồn tại ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII  
đến đầu thế kỷ XIX trong bối cảnh:  
Cách mạng công nghiệp nổ ra, nền công nghiệp bằng máy móc ra đời. Giai  
cấp sản và giai cấp tư sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản chủ  
nghĩa, trong đó giai cấp sản ngày càng phụ thuộc vào giai cấp tư sản. Sự bần cùng,  
thất nghiệp, tình trạng sản xuất vô chính phủ, phân hóa xã hội có xu hướng ngày càng  
tăng lên các nước công nghiệp phát triển. Ở các nước mới bước vào cách mạng  
công nghiệp, nền sản xuất nhỏ còn chiếm ưu thế, thì những mâu thuẫn hội diễn ra  
gay gắt hơn.  
Đây miếng đất làm nảy sinh kinh tế chính trị tiểu tư sản.  
2.3.2. Đặc điểm luận:  
Kinh tế chính trị tiểu tư sản một trường phái muốn phê phán chủ nghĩa tư  
bản theo quan điểm tiểu tư sản. Những người thuộc trường phái này cho rằng chủ  
nghĩa tư bản là chèn ép, làm phá sản người sản xuất nhỏ, là nguyên nhân gây ra nạn  
bần cùng và thất nghiệp. Họ đề nghị chuyển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa về với  
sản xuất nhỏ.  
       
Đặc điểm nổi bật trong lý luận của họ đã áp dụng phương pháp chủ quan  
trong phê phán chủ nghĩa tư bản; chuyển việc nghiên cứu vào các quan hệ đạo đức,  
phẩm hạnh, phẩm giá con người thay cho các quy luật kinh tế khách quan đã được  
kinh tế chính trị cổ điển tôn trọng. Họ phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu  
tư sản.  
Đại biểu của trường phái này là Sismondi (1773 – 1842) và Proudhon (1809 –  
1865)  
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC VỀ  
QUY LUẬT ĐIỀU TIẾT THU NHẬP:  
1. Lý luận về tiền công:  
1.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:  
1.1.1. William Petty (1623 – 1687):  
thuyết về tiền công của William Petty được xây dựng trên cơ sở thuyết  
giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hóa, tiền lương là giá cả tự nhiên của lao  
động.  
Petty lấy luận giá trị làm cơ sở cho lý luận về tiền công. Ông không định  
nghĩa phạm trù tiền công mà chỉ nêu lên quan điểm về mức tiền công. Ông cho rằng,  
tiền công không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Mức tiền công cao  
thì công nhân sẽ uống rượu say và không muốn làm việc. Muốn bắt họ làm việc thì  
phải hạ mức tiền công xuống mức tối thiểu. Ông kịch liệt phản đối những trường hợp  
tăng mức tiền công quá cao. Sở dĩ như vậy bởi vì trong thời đại của Petty, nhà tư bản  
chưa thể bắt công nhân lệ thuộc vào công nhân (lệ thuộc vào cung trên thị trường  
lao động) phải dựa vào sự ủng hộ của nhà nước. Ông là người luận chứng cho  
việc đề nghị phải đạo luật cấm tăng mức tiền công. William Petty là người đầu  
tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết “Quy luật sắt về tiền lương”.  
Ông xem xét tiền công trong mối quan hệ với lợi nhuận, giá cả các tư liệu sinh  
hoạt với cung – cầu về lao động trên thị trường. Theo ông, nếu mức tiền công cao thì  
lượng lợi nhuận giảm ngược lại; nếu giá cả của lúa mì tăng lên thì sự bần cùng  
của công nhân cũng tăng lên (tức tiền công tỷ lệ nghịch với giá lúa mì); số lượng  
lao động tăng lên thì mức tiền công sẽ giảm xuống.  
William Petty đã nêu được cơ sở khoa học của tiền công là giá trị các tư liệu  
sinh hoạt cho công nhân.  
1.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):  
Smith có nhiều điểm đúng đắn về luận. Ông cho rằng trong xã hội nguyên  
thủy, tiền công được xác định bởi năng suất, giai đoạn khởi đầu ấy, “khi mà chưa  
         
sự chiếm hữu đất đai và tích lũy vốn, toàn bộ sản phẩm làm ra thuộc về người lao  
động. Họ chẳng chủ đất cũng chẳng chủ xưởng để chia sẻ phần sản phẩm”.  
Nhưng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tiền công là thu nhập của công nhân làm thuê,  
một phần giá trị mà lao động của công nhân tạo ra. Cơ sở để xác định mức tiền  
công là số lượng giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi nổi công nhân và gia đình  
họ. Ông nghiên cứu mức bình thường của tiền lương chỉ ra giới hạn tối thiểu của  
nó. Theo ông, nếu tiền lương thấp hơn mức tối thiểu này thì thảm họa cho sự tồn tại  
của dân tộc.  
Adam Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương. Trước hết, ông  
cho rằng, tiền lương phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế phản ánh trình độ  
phát triển kinh tế của mỗi nước. Tiền lương thấp hơn mức tối thiểu chỉ ở những  
nước đang diễn ra sự suy thoái về kinh tế. Chẳng hạn, ở Ấn Độ lúc bấy giờ tiền  
lương thấp hơn mức tối thiểu, ở Trung Quốc tiền lương chỉ cao hơn mức tối thiểu  
không đáng kể, ở đó nền kinh tế đang bị đình trệ. Còn các nước nền kinh tế  
phát triển mạnh thì tiền lương lớn hơn mức tối thiểu. Phần lớn hơn này do định mức  
tiêu dùng, truyền thống văn hóa, tập quán dân tộc… quy định.  
Trong một nước, nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương phụ thuộc vào đặc điểm lao  
động của con người, điều kiện làm việc, tính chất công việc, trình độ chuyên môn,  
nghề nghiệp.  
Ông đã thấy được mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa chủ thợ, mâu thuẫn giai  
cấp trong vấn đề tiền công, đã phát hiện ra rằng: “Người thợ muốn có càng nhiều  
tiền công càng hay, nhưng người chủ lại muốn trả công càng ít càng tốt. Thợ kết hợp  
với nhau để đòi tăng lương; chủ kết cũng hợp với nhau để hạ tiền công lao động”.  
Nếu Petty đề nghị trả tiền công thấp hơn mức tối thiểu, thì Smith tán thành trả  
tiền công cao. Theo ông, tiền công không thể hạ thấp quá giới hạn nhất định, phải  
bảo đảm cho công nhân cuộc sống để họ lao động. Phải để cho “những người nuôi  
hội nhận được một số thức ăn, quần áo và nhà ở khả dĩ thể chịu được”. Một xã  
hội không thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ phận rất lớn những thành viên  
của nó nghèo nàn và khổ sở”. Ông đã chứng minh có sức thuyết phục rằng tiền công  
cao là sự cổ vũ, khuyến khích sự cần cù và tính siêng năng, và theo bản chất của con  
người, sự cần cù siêng năng lại càng cao khi khuyến khích vật chất lại càng lớn. “Khi  
nhận được tiền công cao, người thợ làm việc tích cực, chăm chỉ khẩn trương hơn  
khi nhận được tiền công thấp”.  
Smith nghiên cứu tiền công trong cơ chế thị trường. Cho rằng, có hai yếu tố  
quyết định mức tiền công là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh  
hoạt thiết yếu. Lượng cầu về lao động quyết định mức tư liệu sinh hoạt, giá cả quy  
định số tiền công mà công nhân nhận được. Từ luận điểm này, Smith phân biệt sự  
khác nhau giữa tiền công danh nghĩa với tiền công thực tế. Sự khác nhau đó là do  
tính chất dễ chịu hay khó chịu của công việc, mức độ khó khăn đắt đỏ trong việc  
dạy nghề, tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của công việc, mức độ  
tín nhiệm, khả năng thành đạt và tình hình di chuyển lao động. Ông chỉ ra mức tiền  
công trung bình ở mỗi nước hay mỗi địa phương là do trình độ phát triển kinh tế,  
trình độ văn minh và tính chất đặc biệt của kết hợp lao động tư bản.  
Smith không chỉ nghiên cứu tiền công ở tầm vi mô (sự lựa chọn quyết định  
giữa chủ thợ), mà còn nghiên cứu cả ở tầm vĩ mô. Ông cho rằng, mức tăng thu  
nhập vốn của mỗi nước điều kiện để tăng quy mô tiền công, làm tăng thêm cầu  
thuê mướn thêm lao động. Nhu cầu này không tăng, nếu của cải quốc dân không  
tăng. Mức tiền công cao trong những năm phồn vinh, thấp trong những năm suy  
thoái. Tiền công tăng tất yếu làm cho giá nhiều mặt hàng cũng tăng theo bằng cách  
tăng phần cấu thành tiền công trong giá hàng và cho đến nay có xu hướng làm giảm  
mức tiêu thụ ở trong nước ở nước ngoài. Tuy vậy, việc tăng tiền công vốn có xu  
hướng làm tăng năng suất lao động khiến cho một lượng lao động ít hơn thể làm  
ra một lượng sản phẩm nhiều hơn. Điều này lại thúc đẩy tăng trưởng sản lượng của  
nền kinh tế. Ngoài ra, mức tiền công cao hay thấp còn phụ thuộc vào sự điều chỉnh  
của luật pháp.  
1.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):  
David Ricardo phát triển quan điểm Adam Smith về những thu nhập lần đầu  
của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. thuyết thu nhập của ông được xây dựng trên  
cơ sở thuyết giá trị - lao động.  
Ông cho rằng, lao động là hàng hóa, tiền công là giá cả của lao động. Ông viết:  
“Lao động, giống ncác hàng hóa khác có thể mua và bán, thể tăng giảm về số  
lượng, cũng như có giá tự nhiên và giá thị trường. Giá cả tự nhiên của lao động là  
giá cần thiết cho phép người lao động tồn tại và duy trì nòi giống mà không gây nên  
bất cứ sự gia tăng hay suy giảm nào”. Ông phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả của  
thị trường lao động. Giá cả tự nhiên của lao động tăng lên khi giá cả lương thực và  
các tư liệu sinh hoạt khác tăng lên, và hạ xuống khi giá cả những thứ đó hạ xuống.  
Giá cả tự nhiên của lao động còn phụ thuộc vào phong tục tập quán tiêu dùng của  
nhân dân. Theo tiến trình phát triển của hội, giá cả tự nhiên của lao động chiều  
hướng tăng lên.  
“Giá thị trường của lao động là giá thực sự trả cho lao động trên cơ sở hoạt  
động bình thường của cung tương xứng với cầu; lao động đắt khi khan hiếm rẻ  
khi dư thừa”. Giá cả thị trường của lao động chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung – cầu  
 
về lao động. Tuy có sự biến động, nhưng giá cả thị trường của lao động sẽ phù hợp  
với giá cả tự nhiên của lao động. Nếu không kể đến sthay đổi trong giá trị của tiền,  
thì mức tiền công lên xuống do hai nguyên nhân:  
Một , do sự thay đổi trong quan hệ cung và cầu về lao động;  
Hai là, do những biến động trong giá cả của những hàng hóa mà người ta dùng  
tiền công để mua.  
Theo Ricardo, việc đánh giá mức tiền công cao hay thấp phải căn cứ vào số  
lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu tiền công đem lại cho anh ta, chứ không phải dựa  
vào quy mô tiền công. Nhưng ông chủ trương trả tiền công thấp, chỉ đủ những tư liệu  
sinh hoạt ở mức tối thiểu và cho rằng tiền công thấp là quy luật tự nhiên trong mọi  
hội. Chỉ trong điều kiện đặc biệt thuận lợi, khả năng tăng lực lượng sản xuất mới  
vượt khả năng tăng dân số, còn trong điều kiện bình thường, với đất đai hạn chế và  
sự giảm sút hiệu quả của đầu tư bổ sung, sẽ làm cho của cải tăng chậm hơn dân số.  
Khi đó, cơ chế điều tiết tự phát sẽ hoạt động. Điều đó sẽ kìm hãm tốc độ tăng dân số.  
Ông ủng hộ quan điểm của William Petty về quy luật sắt về tiền công. Mặt khác, ông  
cũng thừa nhận rằng công nhân nhận được mức tiền công quá ít là một nguy cơ lớn.  
Việc thay lao động của con người bằng máy móc đem lại những tổn thất rất lớn cho  
lợi ích của giai cấp công nhân.  
Ông ủng hộ việc nhà nước không can thiệp vào hoạt động của thị trường lao  
động, phê phán sự giúp đỡ đối với người nghèo, vì theo ông, làm như vậy sẽ ngăn  
cản hoạt động của quy luật tự nhiên.  
1.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:  
1.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):  
Malthus đã sử dụng yếu tố tầm thường trong học thuyết của Adam Smith tức  
việc quy định tỷ giá lao động.  
Theo Malthus, tiền công là chi phí về lao động sống. Tiền công giảm là do dân  
số tăng lên nên tăng cung về lao động  
1.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):  
Lợi dụng yếu tố tầm thường của Smith khi coi tiền công, lợi nhuận địa tô  
là ba nguồn gốc cấu thành giá trị hàng hóa, kết hợp với thuyết giá trị ích lợi (tính  
hữu dụng) của mình, Say đưa ra lý thuyết “Ba nhân tố sản xuất” và “Ba nguồn thu  
nhập”.  
Theo Say, tham gia vào sản xuất có ba yếu tố: lao động, tư bản ruộng đất.  
Mỗi nhân tố đó đều có công phục vụ, mà cái gì tạo ra sự phục vụ đều sản xuất. Do  
     
đó, không chỉ có lao động, cả tư bản tự nhiên đều tạo ra giá trị. Cả ba yếu tố  
đều có công phục vụ: lao động tạo ra tiền công, tư bản tạo ra lợi nhuận, ruộng đất tạo  
ra địa tô. Vì vậy, phải quyền nhận được thu nhập tương xứng: công nhân nhận  
được tiền công, nhà tư bản hưởng lợi nhuận, địa chủ nhận được địa tô.  
Từ sự phân tích đó, ông khẳng định, tiền công của công nhân tương ứng với  
phần đóng góp của công nhân vào giá trị sản phẩm, lao động của công nhân giản  
đơn, thô kệch thì sẽ thu được tiền lương thấp hơn lợi nhuận ngược lại. Từ đó cho  
rằng, ai cũng được hưởng phần thu nhập, không ai bóc lột ai. Chỉ tư bản cho vay  
mới là bóc lột.  
1.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):  
Sismondi theo quan điểm của A. Smith, coi tiền công phụ thuộc vào tích lũy  
tư bản số lượng công nhân, cung – cầu về lao động. Đồng thời, ông lại theo quan  
điểm của kinh tế chính trị tầm thường, khi cho rằng tiền công và sự tăng dân số có  
quan hệ trực tiếp với nhau; từ đó khẳng định thất nghiệp hiện tượng thường xuyên.  
Ông chống lại luận điểm cho rằng việc dùng máy hơi nước làm giảm nhu cầu  
lao động ở ngành này, nhưng lại tăng nhu cầu lao động ở ngành khác.  
2. Lý luận về lợi nhuận:  
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:  
2.1.1. Adam Smith (1723 – 1790):  
Smith đã chỉ nguồn gốc bản chất của lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận là  
“phần khấu trừ thứ hai từ sản phẩm của người lao động”. Nó không chỉ xuất hiện  
trong nông nghiệp (điều chủ nghĩa trọng nông đã vạch ra), mà còn có cả trong  
ngành công nghiệp. Đây là phát hiện đúng và là thành tựu cao nhất của kinh tế chính  
trị tư sản cổ điển đã nêu lên được quan hệ kinh tế cơ bản nhất trong xã hội tư bản.  
Các Mác đã đánh giá cao phát hiện này, cho rằng “Smith đã nắm được nguồn gốc  
thực sự của giá trị thặng dư”.  
Smith còn cho rằng mức lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào những nguyên  
nhân làm giảm hay tăng tiền công, mức độ cạnh tranh hay độc quyền trên thị trường  
và tình trạng tăng, giảm của cải của hội. Ông đã thấy xu hướng hình thành tỷ suất  
lợi nhuận bình quân do tác động cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất  
lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.  
Từ quan điểm trên, Smith cho rằng lợi tức một phần của lợi nhuận, được đẻ  
ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản đi vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần  
túy và do mức lợi nhuận thuần túy quyết định.  
       
2.1.2. David Ricardo (1772 – 1823):  
Ricardo không có ý định truy tìm nguồn gốc của lợi nhuận chỉ đi tìm các  
yếu tố ảnh hưởng đến nó mà thôi. Điều này dễ hiểu, bởi học thuyết kinh tế mà ông  
xây dựng nhằm bảo vệ lợi ích các nhà tư bản công nghiệp, nên không muốn phân  
tích nguồn gốc thật sự của lợi nhuận từ giá trị lao động, mà ông lại cho rằng nó là  
một thuộc tính cố hữu của tư bản, trước nằm ngoài quá trình sản xuất ra giá trị.  
Mặc vậy, ta có thể thống qua một số luận điểm của ông về giá trị, về mối quan hệ  
giữa các thu nhập “tiền công thấp chỉ một tên gọi khác đi đôi với các lợi nhuận  
cao”, để khẳng định rằng ông đã hiểu lợi nhuận kết quả lao động, phần giá trị  
lao động do công nhân tạo ra ngoài tiền công.  
Ricardo giải thích không đúng yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, cho rằng do  
độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm sút, nên nhà tư bản phải chi phí một lượng  
lao động ngày càng lớn hơn để sản xuất ra số lương thực cần thiết phụ thêm, làm cho  
tiền công tăng lợi nhuận bị giảm.  
Việc tích lũy tư bản ảnh hưởng tới lợi nhuận? Theo Ricardo, nó sẽ không  
làm giảm lợi nhuận một cách lâu dài, vì tư bản cuối cùng sẽ tìm được những bàn tay  
cần thiết cho nó. Tư bản tăng lên thì công việc do tư bản thực hiện cũng tăng theo  
cùng một tỷ lệ.  
Thành công quan trọng trong hệ thống luận của Ricardo là luận giải đúng  
quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Ông xuất phát từ hai giả định cổ điển về nền  
kinh tế thị trường: Các nhà tư bản luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận tư bản thể  
dịch chuyển hóa tỷ suất lợi nhuận trong điều kiện tự do cạnh tranh. Trên cơ sở đó,  
Ricardo cho rằng: “Cái khát khao không cùng của các nhà tư bản rời bỏ chỗ có ít  
lợi nhuận sang chỗ nhiều lợi nhuận hơn tạo nên một khuynh hướng mạnh mẽ san  
bằng tỷ suất lợi nhuận ở mọi nơi, hay là cố định chúng ở một tỷ lệ nhất định cho  
phép, theo dự tính của các bên, loại trừ mọi lợi thế hoặc dự tính là có khả năng  
xuất hiện trong một ngành nào đó”. Với mức tỷ suất lợi nhuận được san bằng, các  
nhà tư bản trong mọi lĩnh vực đều nhận được mức “lợi nhuận thông thường” hay “lợi  
nhuận bình quân”.  
2.2. Kinh tế chính trị tầm thường:  
2.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):  
Malthus cho rằng chi phí để tạo ra hàng hóa gồm chi phí mua lao động vật  
hóa, chi phí mua lao động sống lợi nhuận tư bản ứng trước. Như vậy, lợi nhuận là  
khoản dôi ra ngoài chi phí lao động sống, tách lợi nhuận ra khỏi lao động sống.  
     
Ông khẳng định lợi nhuận không liên quan đến lao động của công nhân, nó  
được coi như một yếu tố cấu thành của giá trị. Công nhân không tạo ra lợi nhuận cho  
nhà tư bản, không bị tư bản bóc lột.  
Theo Malthus, lợi nhuận không thể xuất hiện trong việc trao đổi giữa các nhà  
tư bản. Malthus nhận định trong phạm vi khả năng những người đảm nhiệm sản xuất  
(tức là nhà tư bản và công nhân) không thể tìm ra lượng cầu khả năng thanh toán  
phần lượng cung do lợi nhuận đại biểu. Do đó, tình trạng thừa hàng hóa sẽ xuất hiện.  
hội chỉ có nhà tư bản và công nhân thì không thể tránh khỏi tai họa đó.  
Theo Malthus, lối thoát của CNTB là phải tăng mức tiêu dùng của giai cấp  
không sản xuất như quý tộc, tăng lữ, nhân viên Nhà nước… những người chỉ mua,  
không bán, “những người thứ ba” phải hoang phí hơn để tạo nên lượng cầu đầy đủ  
cho nhà tư bản.  
2.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):  
Trong lịch sử, cho đến thời của Say, đã có ba quan niệm về lợi nhuận:  
Một , lợi nhuận do lưu thông tạo ra, là kết quả của việc mua rẻ, bán đắt;  
Hai là, lợi nhuận do sự tiết dục, nhịn ăn tiêu của nhà tư bản;  
Ba là, lợi nhuận hiệu suất đầu do tư bản mang lại.  
Say ủng hộ quan niệm thứ ba và cho rằng đầu tư thêm tư bản vào sản xuất, thì  
sẽ làm tăng thêm sản phẩm, tăng thêm giá trị. Máy móc tham gia vào sản xuất cũng  
làm tăng thêm giá trị, tăng lợi nhuận. Từ đó, ông giải thích lợi nhuận dựa vào hiệu  
suất đầu tư của tư bản.  
Say phân biệt nhà tư bản với nhà kinh doanh. Theo ông, nhà tư bản chính là  
người tư bản cho vay để thu lợi tức, còn nhà kinh doanh là người mạo hiểm, dám  
chấp nhận nguy hiểm trong cuộc chơi. Họ vay tư bản, thuê nhân công, sản xuất ra  
hàng hóa bán trên thị trường. vậy, họ cũng lao động như công nhân, lợi nhuận mà  
họ thu được cũng giống tiền công của công nhân. Đó một hình thức đặc biệt của  
tiền công mà nhà tư bản tự trả cho mình. Cho rằng, chỉ lợi tức của kẻ sở hữu tư  
bản mới là con đẻ của bản thân tư bản.  
Say cho rằng, tiến bộ kỹ thuật có vai trò đặc biệt. Việc sử dụng máy móc đem  
lại “hậu quả” tốt lành không chỉ cho giai cấp tư sản mà còn cho cả giai cấp công  
nhân. Tuy trong thời kỳ đầu, việc sử dụng máy móc mới gây ra “điều bất tiện” gạt  
bỏ một bộ phận công nhân, khiến cho họ “tạm thời” không có việc làm, nhưng về  
sau do việc sử dụng máy móc tăng lên, việc làm cũng tăng lên. Việc sử dụng máy  
móc sẽ làm ra sản phẩm có giá rẻ hơn, công nhân là người “có lợi nhất” điều này  
 
cũng làm cho lợi nhuận tăng lên. Thực chất, Say muốn chứng minh sự hòa hợp lợi  
ích giữa nhà tư bản người lao động.  
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):  
Sismondi phát triển quan điểm của Adam Smith, coi lợi nhuận khoản khấu  
trừ thứ tư vào giá trị sản phẩm và cho rằng đó khoản thu nhập không lao động, là  
kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai họa kinh tế của giai cấp sản.  
Từ đó cho rằng, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá hủy những  
tư bản cố định bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp.  
3. Lý luận về địa tô:  
3.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:  
3.1.1. William Petty (1623 – 1687):  
Theo ông, địa tô là số chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất.  
Chi phí sản xuất bao gồm tiền công và tiền giống. Trong phân tích về địa tô, William  
Petty một mặt, đã đồng nhất với lợi nhuận; mặt khác, lại cho rằng đó kết quả  
của sự bóc lột. Thực ra, ông không rút ra được lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất,  
không trực tiếp đề cập đến vấn đề bóc lột. Nhưng theo phân tích logic của ông, chúng  
ta có thể rút ra được kết luận rằng, công nhân chỉ nhận được tiền công tối thiểu, số  
còn lại lợi nhuận của địa chủ. Logic bên trong của quan niệm đó sự thừa nhận  
có bóc lột.  
Từ luận điểm này, Mác nhận xét công lao của Petty là đã dự đoán đúng bản  
chất của giá trị thặng dư, người đầu tiên nêu ra mầm mống của luận về bóc lột  
theo lối tư bản chủ nghĩa.  
3.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):  
Smith có nhiều luận điểm đúng đắn và khoa học về địa tô. Theo ông, địa tô do  
chế độ độc quyền về đất mà có, nó là: (1) Khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao  
động, kết quả của việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; (2) Giá phải trả cho việc  
sử dụng đất, nó là giá cao nhất người thuê có khả năng trả trong những điều kiện  
đất đai hiện nay.  
Hai luận điểm đó đã phải ánh được mối quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư  
bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp trong quan hệ ruộng đất tư  
bản chủ nghĩa.  
Smith đã chứng minh quan hệ giữa địa tô và giá cả nông phẩm. Cho rằng, quy  
địa nhiều hay ít là kết quả của giá cả nông phẩm. Địa phụ thuộc vào tình  
hình giá cả nông phẩm vượt quá số tiền đủ để lại tiền công và lợi nhuận hay  
         
không. Theo ông, dân số tăng lên kéo theo yêu cầu về nông phẩm tăng làm cho giá  
nông phẩm “bao giờ cũng một số dư nào đó dành cho địa của người chủ ruộng”.  
vậy, địa tô là kết quả của giá cả nông phẩm cao chứ không phải là nguyên nhân  
của giá cả cao.  
Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tô: địa tô trên những đất có màu mỡ  
địa tô do vị trí của đất. Cho rằng mức địa đương nhiên là giá độc quyền. Các  
yếu tố độc quyền liên quan đến việc xác định địa tô là độ màu mỡ vị trí của đất.  
Đất thích hợp với một sản phẩm đặc biệt đều có có độc quyền. Như vậy, ông đã biết  
đến địa tô chênh lệch. Tuy nhiên, ông không chỉ ra được địa tô chênh lệch do thâm  
canh mà có mặc đã phân biệt địa với tiền thuê ruộng, cho rằng trong tiền thuê  
ruộng địa tô và lợi tức của tư bản đã chi phí vào việc cải thiện đất đai.  
3.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):  
Với quyền sở hữu đất đai, địa chủ cho thuê và thu tiền sử dụng đất, gọi địa  
tô. Theo Ricardo, địa tô là phần sản phẩm của đất đai được trả cho địa chủ về việc  
sử dụng những lực lượng đầu tiên và chưa bị phá hoại của đất đai.  
Khi giải thích nguồn gốc của địa tô, Ricardo xuất phát từ luận giá trị lao  
động. Ông phê phán J.B.Say coi địa tô là do sự phục vụ có tính chất sản xuất của  
ruộng đất. Theo ông, địa tô là bộ phận của sản phẩm lao động, một phần giá trị do  
lao động tạo ra, là một hình thức phái sinh của lợi nhuận. Nó là kết quả của phân  
phối lại.  
Sở dĩ xuất hiện địa như vậy “chỉ đất đai giới hạn về lượng và không  
đồng đều về chất, tiến trình phát triển dân số đã buộc người ta phải canh tác trên  
những mảnh đất kém màu mỡ hơn, vtrí giao thông bất tiện hơn, người ta mới phải  
trả tiền cho việc sử dụng đất”. Việc trả loại tiền này là do tồn tại chế độ tư hữu về  
ruộng đất. Như vậy, chỉ những mảnh đất màu mỡ gần đường giao thông, địa  
chủ mới thu được địa tô này. Ricardo đã giải thích đúng cơ sở của địa tô chênh lệch  
I và cho rằng nó là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân mà những  
người thuê ruộng phải nộp trả địa chủ.  
3.2. Kinh tế chính trị học tầm thường - Jean Baptiste Say (1767 – 1832):  
Theo Say, địa tô là khoản thu nhập chính đáng của địa chủ ruộng đất cũng  
tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra giá trị của hàng hóa.  
Như vậy, ruộng đất tạo ra địa tô.  
3.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):  
     
Sismondi cho rằng, địa tô là kết quả của sự cướp bóc công nhân. Ông phê phán  
quan điểm của David Ricardo cho rằng ruộng đất xấu không có địa tô và khẳng định  
ruộng xấu cũng phải nộp địa tô do chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất quy định. Ông  
đã thừa nhận địa tuyệt đối.  
III. Ý NGHĨA LUẬN THỰC TIỄN:  
1. Ý nghĩa luận:  
Nghiên cứu những thành tựu trong nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều  
tiết thu nhập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc xác định thu nhập  
của mỗi yếu tố sản xuất sẽ được xác định như thế nào. Hay nói cách khác, theo cách  
tiếp cận vĩ mô, tiêu dùng và tiết kiệm chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng thu nhập.  
Các lý thuyết điều tiết thu nhập đã luận giải nguồn gốc của bất bình đẳng và  
sự nghèo đói trong xã hội, cho rằng đó là do quy luật tất yếu của thị trường cạnh  
tranh.  
Mặc dù có những hạn chế, sai lầm, nhưng với tư cách là các trường phái khoa  
học trong lịch sử, với những tư tưởng tiến bộ, các học thuyết trước C. Mác là cơ sở,  
nguồn gốc luận của chủ nghĩa Mác.  
Việc nghiên cứu về quy luật điều tiết thu nhập giúp cho việc mở rộng và nâng  
cao hiểu hiểu biết về nền kinh tế thị trường, trang bị những kiến thức cần thiết cho  
việc nghiên cứu, xây dựng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước,  
chiến lược kinh doanh…  
Tín hiệu thị trường cơ sở để người sản xuất đầu tư vào đâu thu được nhiều  
lợi nhuận, tích cực mở rộng sản xuất đứng vững trong cạnh tranh. Nó sàng lọc  
được yếu tố người vật trong nền kinh tế.  
Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới hội nhập, đổi  
mới tư duy kinh tế một ý nghĩa vô cùng quan trọng để thể nhận thức và phân  
tích những mặt mạnh, mặt yếu của các chính sách kinh tế đã đang được thực hiện  
tại nhiều quốc gia. Từ đó mới thể đề xuất để hoạch định, nhận thức sâu sắc vận  
dụng sáng tạo những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong  
quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa ở  
Việt Nam.  
2. Liên hệ thực tiễn:  
Các học thuyết của trường phái kinh tế chính tị tư sản cổ điển cho rằng, phân  
công lao động sẽ làm tăng hiệu suất lao động, tăng năng suất lao động, từ đó làm  
tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Nguyên nhân dẫn đến phân công lao động là  
     
trao đổi hàng hóa trên thị trường, mức độ phân công lao động phụ thuộc vào quy mô  
thị trường. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề phân công lao động là  
thước đo trình độ phát triển của nền kinh tế đó, ở đâu có phân công lao động thì ở đó  
một nền kinh tế phát triển. Phát triển kinh tế thị trường, định hướng hội chủ  
nghĩa cũng đang hướng theo quan điểm này, không chỉ phân công lao động trong  
phạm vi quốc gia, mà phân công lao động đã đang hướng ra phạm vi quốc tế,  
nhằm khai thác tối đa mọi nguồn lực ở mọi nơi.  
Ở nước ta, phân công lao động đã diễn ra một cách rộng rãi, để phát triển kinh  
tế thị trường không chỉ về chiều rộng mà còn cả về chiều sâu, giữa các ngành, các  
lĩnh vực kinh tế. Nước ta có điều kiện đphát triển kinh tế thị trường là tài nguyên,  
nguồn lực con người… cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế thị trường.  
Vận dụng tư tưởng tự do kinh tế của Adam Smith có ý nghĩa quan trọng đối  
với các chủ thể kinh tế trong việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Các chủ  
thể kinh tế phải luôn tự đổi mới kỹ thuật, trang thiết bị, mẫu mã, chất lượng sản  
phẩm… làm cho thời gian lao động biệt của mình thấp hơn thời gian lao động xã  
hội để thu được lợi nhuận nhiều, tiếp tục mở rộng sản xuất.  
So với các nước phát triển trên thế giới, trình độ kỹ thuật của nước ta còn thấp  
kém, trình độ lao động chưa cao, tính năng động của các chủ thể kinh tế còn yếu. Vì  
vậy, phát triển kinh tế thị trường để thừa nhận tính đồng bộ của nền kinh tế: thị trường  
vốn, tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán…  
Chúng ta phải thừa nhận tự do kinh doanh, sự bình đẳng của các chủ thể trong  
nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xóa đói giảm nghèo, có tích  
lũy nội bộ.  
Tuy nhiên, cũng cần có cái nhìn khách quan, khoa học về cơ chế thị trường.  
Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thị trường trong việc điều tiết nền kinh tế. Sự  
điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế cần thiết để ngăn ngừa, khắc phục những  
thất bại của thị trường, để thị trường hoạt động hiệu quả.  
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, Việt Nam đã  
xác định được mục tiêu phát triển bền vững cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn  
tới. Phát triển bền vững một khái niệm không còn mới, trong đó đòi hỏi quá trình  
phát triển chú trọng tới cả ba trụ cột: kinh tế, hội và môi trường. Đây mặc dù là  
tầm nhìn chung của nhân loại nhưng tùy theo điều kiện từng quốc gia, trong từng  
giai đoạn phát triển, nhu cầu năng lực thực hiện phát triển bền vững không phải  
bao giờ cũng thống nhất với nhau.  
Về vấn đề điều tiết thu nhập hiện nay, chúng ta không thể bỏ qua việc điều tiết  
thu nhập cá nhân. Nhà nước thông qua công cụ thuế đánh vào thu nhập cá nhân  
của người dân để điều tiết nền kinh tế khi mà có những cá nhân lại mức thu nhập  
cao hơn rất nhiều so với những cá nhân khác. Mặt khác, việc đánh thuế vào các cá  
nhân này tạo ra cho nhà nước một khoản thu nhập từ đó thể chi tiêu cho những  
vấn đề khác cần thiết cho xã hội chẳng hạn như là: trợ cấp, học bổng, xây nhà tình  
thương, xóa đói giảm nghèo… Nhìn chung, hiện nay các chính phủ sử dụng chủ yếu  
2 công cụ là tín dụng chính sách lãi suất ngân hàng và chính sách thuế, nhưng đặc  
biệt là công cụ thuế.  
Những hình thức phân phối, điều tiết thu nhập ở Việt nam trong thời kỳ quá  
độ lên CNXH xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và tự đặc  
điểm kinh tế hội của đất nước mà chúng ta vận dụng nhiều hình thức thu nhập.  
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức hội khác  
nhau. Nhà nước thừa nhận đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn dân,  
nhà nước cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản hợp pháp  
khác. Phù hợp với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu một hình thức  
phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù các hình thức phân phối thu nhập của nước ta  
không tồn tại biệt lập với nhau mà đan xen với nhau và hợp thành cơ cấu kinh tế  
quốc dân thống nhất, nhưng chưa thực hiện phân phối thu nhập theo một hình thức  
phải thực hiện nhiều hình thức. Chỉ vậy mới giải phóng được năng lực sản  
xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế của đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ  
kinh tế hội ở nước ta. Trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức kinh  
doanh khác nhau. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng hội  
chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc nhiều  
thành phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế phương thức tổ chức sản xuất  
– kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ kể cả thành phần kinh tế nhà nước  
cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau. Vì vậy, không thể một hình thức  
phân phối thu nhập thống nhất phải nhiều thành phần khác.  
Việc điều tiết thu nhập đúng đắn và phù hợp với tình hình hiện nay của đất  
nước sẽ động lực mạnh thúc đẩy sản xuất phát triển cải thiện đời sống nhân  
dân. Ngược lại, điều tiết thu nhập không đúng sẽ không đảm bảo lợi ích kinh tế không  
công bằng, chênh lệch quá lớn sẽ ảnh hưởng đến sản xuất. Như vậy, điều tiết thu  
nhập ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế vấn đề hội, đặc biệt là công bằng xã  
hội. Đứng trước tình hình đó, những thành tựu của các học thuyết kinh tế trước C.Mác  
về quy luật điều tiết thu nhập được Đảng và Nhà nước phát huy, bên cạnh đó, trước  
những hạn chế của các học thuyết này, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách  
nhằm phát huy vai trò, động lực của phân phối thu nhập đối với nền kinh tế đất nước:  
Một , Nâng cao vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phối thu nhập  
Hai là, các giải pháp chống chủ nghĩa bình quân  
Ba là, hoàn thiện các chính sách tiền công, tiền lương và phân phối lại thu  
nhập.  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] GS.TS. Mai Ngọc Cường, Lịch sử các học thuyết kinh tế. Cấu trúc hệ thống. Bổ  
sung. Phân tích và nhận định mới, Nhà xuất bản luận chính trị, Nội, 2005  
[2] PGS.TS. An Như Hải, Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế nâng cao, Viện  
Kinh tế chính trị học, Nội, 2014.  
[3] GS.TS. Phạm Quang Phan – PGS.TS. An Như Hải, Giáo trình lịch sử các học  
thuyết kinh tế, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011  
[4] PGS.TS. Trần Bình Trọng, Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nhà xuất  
bản thống kê, Hà Nội, 2003.  
 
docx 20 trang yennguyen 01/04/2022 6160
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Những thành tựu nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_nhung_thanh_tuu_nghien_cuu_truoc_c_mac_ve_quy_luat.docx