Chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
NHÂN THỌ TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Đình Huy*
Bùi Thị Hằng Nga**
* TS. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
** ThS. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Do đối tượng của hoạt động kinh doanh là rủi ro, là sự không chắc chắn,
nên thực chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là bán các
lời hứa trong tương lai. Các lời hứa này chính là các cam kết chi trả về tài
chính từ phía doanh nghiệp bảo hiểm cho các tổn thất khi người được bảo
hiểm gặp rủi ro trên thực tế. Năng lực tài chính là một yếu tố quan trọng
giúp doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo được khả năng chi trả cho những
người đã tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vì vậy, nhằm
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiệu quả, bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng thì pháp luật cần có các quy định cụ thể về quản lý,
giám sát để đảm bảo năng lực tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là đối
với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khi rủi ro gắn liền với sức khỏe,
tính mạng và tuổi thọ của người được bảo hiểm.
Từ khóa: Chế độ tài chính của
doanh nghiệp bảo hiểm, bảo
hiểm nhân thọ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 26/10/2020
: 09/11/2020
: 13/11/2020
Article Infomation:
Abstract:
The significant issues in business activities are its risky and uncertainty,
thus in fact the business operation of an insurance enterprise (insurer)
is to offering future assurances. These promises are financial repayment
commitments from the insurer for losses of the insured happened to
occur in reality. Therefore, financial capacity is an essential factor that
guarantees an insurance enterprise could ensure the ability to compensate
for those who have participated in insurance during an insurance event
occurs. Consequently, in order to ensure effective insurance business and
protect consumers’ interests, the law should have specific regulations on
management and supervision to ensure financial capacity of enterprises,
especially life insurance enterprise because of its risks are exceptional
associated with the health and life of the insured.
K e y w o r d s : I n s u r a n c e
enterprises, the financial
regimes by the insurance
enterprises, life insurance
Article History:
Received
Edited
: 26 Oct. 2020
: 09 Nov. 2020
: 13 Nov. 2020
Approved
1. Đặt vấn đề
lợi nhuận, chế độ sổ sách, kế toán, đảm bảo
khả năng thanh toán trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nhằm đạt được những mục
tiêu lợi nhuận nhất định của DNBH. Về
nguyên tắc, DNBH tự chủ về tài chính, tự
chịu trách nhiệm về quản lý, giám sát hoạt
Chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo
hiểm (DNBH) được hiểu một cách đơn giản
là các nội dung liên quan đến việc tạo lập,
sử dụng nguồn vốn, quỹ tiền tệ, phân phối
Số 02(426) - T1/2021
23
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
động tài chính, kết quả hoạt động tạo ra
doanh thu, và phát sinh chi phí, đồng thời
đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ cam kết của
mình theo quy định của pháp luật. Trong
quá trình đó, DNBH sẽ chịu sự quản lý của
Nhà nước về tài chính, hướng dẫn và kiểm
tra việc thực hiện chế độ tài chính đối với
DNBH theo quy định của pháp luật.
lại những người tham gia bảo hiểm. Do đó,
kinh doanh bảo hiểm là một hoạt động kinh
doanh có điều kiện không chỉ điều kiện về
loại hình doanh nghiệp mà còn phải đáp
ứng điều kiện về vốn pháp định.
Vốn pháp định là yêu cầu của Nhà
nước về mức vốn tối thiểu mà các doanh
nghiệp muốn được thành lập phải có1.
Chế độ tài chính của DNBH có vai trò
rất quan trọng đối với DNBH. Bởi vì, đây
là công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài
chính nhằm đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu
tư kinh doanh bảo hiểm; giúp DNBH sử
dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả; là
đòn bẩy kích thích và điều tiết sản xuất kinh
doanh; là công cụ quan trọng để kiểm tra các
hoạt động sản xuất kinh doanh của DNBH.
Do tính chất, chức năng, phạm vi hoạt
động của các doanh nghiệp bảo hiểm khác
nhau nên vốn pháp định đối với mỗi loại
hình doanh nghiệp cũng khác nhau. Bên
cạnh đó, do tính chất của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nên cho dù cùng một loại
hình doanh nghiệp nhưng vốn pháp định của
doanh nghiệp bảo hiểm bao giờ cũng cao
hơn so với các ngành nghề khác. Khoản 2
Điều 10 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày
1/7/2016 quy định chi tiết thi hành Luật
Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo
hiểm (Nghị định số 73) quy định mức vốn
pháp định của DNBH nhân thọ như sau:
Chế độ tài chính của DNBH bao gồm
các nội dung sau: Vốn điều lệ; Dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm; Đầu tư vốn; Khả năng
thanh toán và khôi phục khả năng thanh
toán của DNBH; Doanh thu và chi phí; Lợi
nhuận và phân phối lợi nhuận; Chế độ kế
toán, kiểm toán, thống kê và báo cáo tài
chính.
“Mức vốn pháp định của doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ:
Trong đó, những nội dung quan trọng
gắn liền với năng lực tài chính và khả năng
thanh toán của các DNBH là: vốn điều lệ,
quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm, khả
năng thanh toán và đầu tư vốn.
a) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
(trừ bảo hiểm liên kết đơn vị, bảo hiểm
hưu trí) và bảo hiểm sức khỏe: 600 tỷ
đồng Việt Nam;
b) Kinh doanh bảo hiểm theo quy định
tại điểm a khoản này và bảo hiểm liên kết
đơn vị hoặc bảo hiểm hưu trí: 800 tỷ đồng
Việt Nam;
2. Vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ
Nếu như việc kinh doanh của các doanh
nghiệp khác phải dựa hoàn toàn vào vốn tự
có, thì đối với doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm, việc kinh doanh chỉ dựa một
phần vào vốn điều lệ ban đầu còn lại chủ
yếu là huy động từ việc thu phí của khách
hàng tham gia bảo hiểm với phương châm
số tiền huy động được từ những người tham
gia bảo hiểm phải được sử dụng để phục vụ
c) Kinh doanh bảo hiểm theo quy định
tại điểm a khoản này, bảo hiểm liên kết đơn vị
và bảo hiểm hưu trí: 1.000 tỷ đồng Việt Nam”.
Đồng thời, khoản 2 Điều 50 Nghị định
số 73 quy định: “Trong suốt quá trình hoạt
động, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo
1. Bùi Thị Hằng Nga (2015), Pháp Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm (Sách tham khảo), Nxb. Đại học quốc gia
TP. HCM, tr.64.
24
Số 02(426) - T1/2021
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
hiểm phải bảo đảm duy trì nguồn vốn chủ
sở hữu đáp ứng các nguyên tắc sau:
tác động đến hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp3.
a) Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài, doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm không thấp hơn
mức vốn pháp định quy định tại Điều 10
Nghị định này;
Mô hình xác định vốn cần thiết tối
thiểu tương ứng với mỗi loại rủi ro thường
được thực hiện bằng công thức chung là số
tiền chịu rủi ro nhân hệ số rủi ro, hoặc tính
toán giá trị tài sản, trách nhiệm bảo hiểm
theo cơ sở do cơ quan quản lý quy định để
làm căn cứ so sánh với vốn sẵn có. Hệ số
rủi ro được xác định theo các cấp độ đối
với phí bảo hiểm; đối với bồi thường, có xét
đến sự biến động đối với bảo hiểm trong
nước và bảo hiểm ngoài lãnh thổ. Hệ số
này tùy thuộc vào kết quả dữ liệu tổng hợp,
phân tích toàn thị trường, cần có thời gian
để kiểm nghiệm và thống nhất chung giữa
tất cả các DNBH nhân thọ. Đó là lý do giải
thích tại sao trên thực tế, vốn điều lệ cũng
như tài sản của các DNBH nhân thọ trên thị
trường luôn lớn hơn rất nhiều so với mức
vốn pháp định. Tuy nhiên, về mặt quản lý
nhà nước, vốn pháp định là căn cứ pháp
lý để xác định trách nhiệm tài chính phát
sinh của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung
và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nói
riêng. Từ đây cho thấy, quy định của pháp
luật kinh doanh bảo hiểm về mức vốn pháp
định không phù hợp với yêu cầu đảm bảo
khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo
hiểm để thực hiện các cam kết tài chính với
những người tham gia bảo hiểm.
b) Bảo đảm biên khả năng thanh toán
của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
nước ngoài cao hơn biên khả năng thanh
toán tối thiểu”.
Do đó, trong quá trình hoạt động kinh
doanh, các DNBH nhân thọ luôn phải duy
trì mức vốn chủ sở hữu tối thiểu, không thấp
hơn mức vốn pháp định là 600 tỷ đồng. Hay
nói cách khác, đây là mức vốn tối thiểu mà
các DNBH nhân thọ phải duy trì trong suốt
quá trình hoạt động.
Rõ ràng trong tương quan với hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
và tương quan với các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực tài chính khác, mức
vốn pháp định này đánh giá là không lớn2
cho một định chế tài chính trung gian như
DNBH và được áp dụng chung cho tất cả
các doanh nghiệp cùng lĩnh vực. Bởi lẽ, các
DNBH khác nhau sẽ có quy mô kinh doanh
và nghĩa vụ chi trả cho số lượng các hợp
đồng bảo hiểm khác nhau. Do đó, nếu quy
định mức vốn tối thiểu cho tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong khi quy
mô và phạm vi hoạt động của chúng là khác
nhau sẽ không phù hợp, không bảo đảm cho
khả năng thanh toán của họ.
3. Quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
Quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm là
khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ
bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào
chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh
toán các trách nhiệm đã được xác định
trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm
mà doanh nghiệp bảo hiểm đã giao kết.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế
giới cho thấy, mức vốn tối thiểu cần thiết
của DNBH nói chung và doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ được xác định dựa trên quy
mô hoạt động và tổng thể các rủi ro có thể
2. Đối với ngân hàng thương mại là 3.000 tỷ đồng, công ty cho thuê tài chính là 500 tỷ đồng (Điều 2 Nghị
định 86/2019/NĐ-CP).
chinh-doi-voi-doanh-nghiep-bao-hiem-phi-nhan-tho.html, truy cập ngày 20/9/2020.
Số 02(426) - T1/2021
25
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm đã có một khoản
tiền nhận được từ phí bảo hiểm. Tuy nhiên,
xét về bản chất của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm thì khoản tiền này không được coi
là nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp,
mà được xác định là khoản nợ với khách
hàng. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ “giữ hộ”
các khách hàng và sẽ phải sử dụng nó để chi
trả cho những khách hàng không may gặp
rủi ro, phải gánh chịu thiệt hại trên thực tế.
từng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tương
ứng với trách nhiệm của doanh nghiệp bảo
hiểm. Bao gồm:
a) Dự phòng toán học: Được sử dụng
để trả tiền bảo hiểm đối với những trách
nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm;
b) Dự phòng phí chưa được hưởng:
Được sử dụng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát
sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp
đồng bảo hiểm trong năm tiếp theo;
Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm, pháp luật yêu cầu
các doanh nghiệp bảo hiểm phải thiết lập
các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Việc lập quỹ
dự phòng nghiệp vụ nhằm đảm bảo thực
hiện các cam kết với khách hàng mà doanh
nghiệp còn nợ.
c) Dự phòng bồi thường: Được sử
dụng để trả tiền cho các sự kiện bảo hiểm
đã xảy ra chưa khiếu nại hoặc đã khiếu nại
nhưng đến cuối năm tài chính chưa được
giải quyết;
d) Dự phòng chia lãi: Được sử dụng
để trả lãi mà doanh nghiệp bảo hiểm đã
thỏa thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm;
Phần phí dự phòng được sử dụng trước
hết là để bồi thường cho những tổn thất đã
xảy ra nhưng chưa thanh toán và những tổn
thất có thể xảy ra. Bởi vì, khi sự kiện bảo
hiểm phát sinh, khoản tiền bảo hiểm thường
không được thanh toán ngay lập tức, mà sau
một thời gian nhất định, có thể kéo dài trong
nhiều niên độ tài chính. Thêm vào đó, các
hợp đồng được thiết lập không phải trong
cùng một lúc, thời gian hiệu lực của hợp
đồng cũng khác nhau.
đ) Dự phòng bảo đảm lãi suất cam kết:
Được sử dụng để bảo đảm mức lãi suất cam
kết của doanh nghiệp đối với khách hàng
theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm;
e) Dự phòng bảo đảm cân đối: Được
sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ
rủi ro, lãi suất kỹ thuật4.
Cách thức trích lập các quỹ được thực
hiện theo các hướng dẫn được quy định
trong Thông tư số 50/2017/TT-BTC và
Thông tư số 01/2019/TT-BTC của Bộ Tài
chính. Theo đó, việc trích lập các quỹ dự
phòng cũng được thực hiện dựa trên cơ sở
mức phí thu được từ các hợp đồng bảo hiểm.
Thiết lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ
không chỉ là yêu cầu có tính chất kỹ thuật
bảo hiểm mà còn là sự bắt buộc mang tính
pháp lý đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Sự
bắt buộc này góp phần bảo vệ quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm, nâng cao ý thức
trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm,
đồng thời tạo điều kiện để tập trung nguồn
vốn đầu tư. Đây là sự bắt buộc chung đối
với tất cả các loại hình bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong mối tương quan với
bản chất và mục đích của việc trích lập quỹ
dự phòng thì các quy định về trích lập dự
phòng nghiệp vụ còn một số bất cập sau:
Đối với Doanh nghiệp bảo hiểm nhân
- Khoản 1 Điều 96 Luật Kinh doanh
thọ, dự phòng nghiệp vụ phải trích lập cho
bảo hiểm xác định việc trích lập dự phòng
4. Điều 54 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP.
26
Số 02(426) - T1/2021
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nghiệp vụ cho mục đích thanh toán là chưa
hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, ngoài trách
nhiệm bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm còn
mang lại quyền lợi tích lũy về số tiền đầu
tư. Vì vậy, khoản 1 Điều 96 cần được sửa
đổi theo hướng “Dự phòng nghiệp vụ là
khoản tiền mà DNBH phải trích lập nhằm
đảm bảo cho những trách nhiệm đã cam kết
theo hợp đồng bảo hiểm”.
toán tối thiểu của doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ được xác định như sau:
“a) Đối với hợp đồng bảo hiểm liên kết
đơn vị, bằng 1,5% dự phòng nghiệp vụ bảo
hiểm cộng với 0,3% số tiền bảo hiểm chịu
rủi ro;
b) Đối với hợp đồng bảo hiểm liên kết
chung và hợp đồng bảo hiểm hưu trí, bằng
4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cộng với
0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro;
- Quy định của khoản 3 Điều 96 Luật
Kinh doanh bảo hiểm: “Bộ Tài chính quy
định mức trích lập, phương pháp trích lập”
là chưa đầy đủ, chưa bao quát hết những nội
dung liên quan đến quỹ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm. Vì vậy, cần sửa đổi khoản 3 Điều
96 như sau: “Bộ Tài chính quy định về cơ
sở, phương pháp trích lập dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm”.
c) Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
khác và hợp đồng bảo hiểm sức khỏe:
- Có thời hạn 05 năm trở xuống: Bằng
4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cộng với
0,1% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro;
- Có thời hạn trên 05 năm: Bằng 4%
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cộng với
0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro”6.
4. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ
Như vậy có thể thấy, Biên khả năng
thanh toán tối thiểu theo quy định của
pháp luật Việt Nam được tính toán dựa trên
doanh thu phí bảo hiểm (dự phòng nghiệp
vụ của doanh nghiệp bảo hiểm được trích
lập từ phí bảo hiểm). Doanh nghiệp bảo
hiểm hoạt động theo nguyên tắc thu phí
trước và chi trả (bồi thường) sau. Vì vậy, về
nguyên tắc, doanh nghiệp sẽ rất an toàn nếu
quy mô của quỹ dự phòng nghiệp vụ càng
lớn. Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp
bảo hiểm hàm chứa rất nhiều loại rủi ro
khi mà các nhà bảo hiểm còn là những nhà
đầu tư tài chính trên thị trường. Do đó, việc
giám sát theo biên khả năng thanh toán nêu
trên không phản ánh được hết các yếu tố
rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp
(rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro kinh
doanh,…). Điều đó khiến cho việc giám sát
theo cách thức trên sẽ không hiệu quả.
Khả năng thanh toán không chỉ là yếu
tố quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp bảo hiểm mà nó
còn là căn cứ quan trọng giúp doanh nghiệp
bảo hiểm thực hiện các cam kết tài chính,
đảm bảo quyền lợi cho những người tham
gia bảo hiểm. Hiện nay, việc giám sát khả
năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo
hiểm hoạt động tại Việt Nam dựa vào biên
khả năng thanh toán.
Biên khả năng thanh toán của doanh
nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài là
phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các
khoản nợ phải trả tại thời điểm tính biên khả
năng thanh toán5.
Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
nước ngoài được coi là có đủ khả năng
thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm và có biên khả năng
thanh toán không thấp hơn biên khả năng
thanh toán tối thiểu. Biên khả năng thanh
Trong khi đó, hầu hết các nước trên thế
giới đã dần chuyển sang mô hình quản lý
5. Điều 20 thông tư số 50/2017/TT-BTC.
6. Điều 64 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP.
Số 02(426) - T1/2021
27
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
vốn và khả năng thanh toán theo hướng cá
thể hóa yêu cầu về vốn tương ứng với rủi ro
hoạt động của từng doanh nghiệp (các nước
châu Âu sử dụng mô hình Solvency II; các
nước Bắc Mỹ và châu Á sử dụng mô hình
vốn trên cơ sở rủi ro- RBC (Risk Based
Capital)7.
- Kiểm soát được bất kỳ dấu hiệu
bất thường nào về tình hình tài chính của
doanh nghiệp, có các công cụ giám sát và
các hành động can thiệp hợp lý;
- Đối với lĩnh vực liên quan đến đầu
tư dài hạn như bảo hiểm nhân thọ, cần có
chuẩn bị tốt về nhân sự (định phí viên, kế
toán viên) và hạ tầng (IT, cơ sở dữ liệu,..)”8.
Song song với đó, các doanh nghiệp
bảo hiểm nước ngoài đã và đang thâm nhập
đáng kể vào thị trường bảo hiểm Việt Nam,
đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ với nhiều
hình thức: công ty 100% vốn nước ngoài,
liên doanh, tham gia góp vốn với tư cách
cổ đông chiến lược tại các công ty cổ phần
Việt Nam. Điều này cho thấy, trong giai
đoạn sắp tới, hệ thống giám sát theo biên
khả năng thanh sẽ khó đáp ứng được những
yêu cầu giám sát tài chính thị trường bảo
hiểm có nhiều rủi ro mang tính quốc tế. Vì
vậy, đã có những khuyến nghị hoạt động
quản lý nhà nước về khả năng thanh toán
của doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian
tới cần được xây dựng và thực hiện theo các
nguyên tắc sau:
5. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ
Trong cuộc sống cũng như trong kinh
doanh, người ta luôn phải tính đến những
rủi ro có thể gặp phải, và luôn muốn chủ
động trong các tình huống xấu nhất. Việc
tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ
chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ
dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ
dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ,
có khả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu tư.
Do vậy, người ta có thể đóng cho các công
ty bảo hiểm một khoản nhỏ hơn thay vì bỏ
một khoản tiền lớn lập quỹ, và dùng tiền đó
nâng cao đời sống hoặc đầu tư kinh doanh.
Bảo hiểm đã trở thành lựa chọn tối ưu trong
môi trường đầy rủi ro hiện nay, đảm bảo
mức độ an toàn tương đối về khả năng tài
chính khi xảy ra rủi ro mà vẫn không gây
đọng vốn.
“- Hướng đến sự giám sát theo nguyên
tắc (principles) chứ không theo quy định cụ
thể (rules);
- Yêu cầu về vốn phải được tính toán
dựa trên đặc trưng rủi ro của từng doanh
nghiệp;
Thông qua các hợp đồng bảo hiểm, các
công ty bảo hiểm đã tập trung lượng tiền
phân tán thành những quỹ tiền tệ khá lớn.
Quỹ bảo hiểm đã trở thành một định chế tài
chính trung gian quan trọng trên thị trường
vốn. Đặc biệt, với loại hình bảo hiểm nhân
thọ, bảo hiểm đã khuyến khích các tầng lớp
nhân dân tăng cường tiết kiệm và qua đó đã
thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn
- Các nhân tố rủi ro đưa vào tính toán
phải có ít nhất: rủi ro tài sản, rủi ro nghiệp
vụ, rủi ro thị trường (lãi suất, tín dụng...) và
rủi ro kinh doanh;
- Khuyến khích các doanh nghiệp bảo
hiểm phòng ngừa rủi ro, thực hiện ALM
(Asset Liability Management);
7. Để hiểu rõ thêm về các công cụ này xin xem thêm ThS. Nguyễn Tiến Hùng & ThS. Võ Đình Trí, Giám
sát an toàn tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm: mô hình của các thị trường phát triển và vận dụng cho
Việt Nam, Tạp chí Phát triển và Hội nhập số tháng 12/2010.
8. ThS. Nguyễn Tiến Hùng & ThS. Võ Đình Trí, Giám sát an toàn tài chính đối với doanh nghiệp bảo
hiểm: mô hình của các thị trường phát triển và vận dụng cho Việt Nam, Tạp chí Phát triển và Hội nhập
số tháng 12/2010.
28
Số 02(426) - T1/2021
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
rỗi để đầu tư. Đó chính là lý do mà hiện nay,
các công ty bảo hiểm là một kênh huy động
vốn không thể thiếu của nền kinh tế và đang
ngày càng được khai thác một cách hiệu
quả, do phạm vi hoạt động rộng, các loại
hình bảo hiểm phong phú. Do đó, pháp luật
kinh doanh bảo hiểm cho phép các DNBH
được sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư
theo nguyên tắc đảm bảo an toàn. Theo đó,
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được đầu
tư theo danh mục, tỷ lệ như sau:
dựng tổ quốc, trái phiếu chính quyền địa
phương và trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh không hạn chế;
b) Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
không hạn chế;
c) Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh
nghiệp, chứng chỉ quỹ tối đa 50% vốn nhàn
rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;
d) Kinh doanh bất động sản theo quy
định tại Luật kinh doanh bất động sản tối
đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm;
“Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ, doanh nghiệp bảo hiểm sức khỏe:
đ) Góp vốn vào các doanh nghiệp khác
tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm”9 .
a) Mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái xây
Tình hình đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm năm 2019 (Đơn vị: Tỷ đồng)
Nhân
thọ
Phi
nhân thọ
Tổng
cộng
Cơ
cấu
Nội dung
Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
114.938
35.820
1.890
150.758 39,84%
168.138 44,43%
Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền 166.248
địa phương
Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh
16.814
554
17.367
4,59%
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, trái phiếu doanh
nghiệp không có bảo lãnh
24.171
4.944
29.115
7.69%
Góp vốn vào các doanh nghiệp khác, thành
lập hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp,
chi nhánh ở nước ngoài
302
2.483
2.785
0,74%
Kinh doanh bất động sản
-
614
156
614
0,16%
2,24%
Cho vay/Tạm ứng từ giá trị tài khoản của
khách hàng
8.330
8.485
Ủy thác đầu tư
Khác
-
530
0,27
530
616
0,14%
0,16%
100%
616
Tổng cộng
331.417
46.991
378.408
9. Khoản 2 Điều 52 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP.
Số 02(426) - T1/2021
29
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Trong đó, cơ cấu danh mục đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong năm 2019
được thể hiện qua biểu đồ sau10 :
Thực tế cho thấy, lợi nhuận của hoạt
động đầu tư chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng lợi nhuận của DNBH phi nhân thọ
ở Việt Nam, thậm chí hoạt động đầu tư
còn phải bù lỗ cho hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
mức từng khoản mục đầu tư: Theo IAIS11
(Hiệp hội Quốc tế các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh doanh bảo hiểm) nhằm đảm
bảo an toàn trong hoạt động đầu tư của
DNBH nói chung và DNBH nhân thọ nói
riêng, pháp luật các quốc gia thường yêu
cầu DNBH tập trung danh mục đầu tư vào
những tài sản có độ an toàn và tính thanh
khoản cao, được quản lý tốt như các sản
phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu)...
Mặc dù chính sách quản ký hoạt động
đầu tư đã hướng dẫn cụ thể và đầy đủ. Trên
cơ sở đó, các DNBH nhân thọ cũng đã chấp
hành quy định này. Tuy nhiên, quy mô đầu
tư của các DNBH lại chỉ mới tập trung vào
tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, ủy
thác đầu tư. Do đó, chúng tôi cho rằng, việc
thực hiện chính sách mở rộng hoạt động
đầu tư cho DNBH nhân thọ là hết sức quan
trọng. Để thực hiện chính sách này, cần lưu
ý một số vấn đề sau:
- Bổ sung quy định tính toán số vốn tối
thiểu cần thiết tương ứng với từng loại hình
tài sản đầu tư của từng DNBH: Mặc dù,
Nhà nước đã có những chính sách đảm bảo
an toàn tài chính cho thị trường bảo hiểm
bằng cách ban hành những quy định hướng
dẫn về việc trích lập dự phòng rủi ro đối với
hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, việc trích lập
dự phòng rủi ro của các DNBH ở Việt Nam
hiện nay chủ yếu là ứng phó, do vậy, cần rà
soát lại các quy định để có các biện pháp dự
phòng rủi ro hữu hiệu nhằm tạo điều kiện
- Bỏ giới hạn các tài sản mà DNBH
nhân thọ có thể đầu tư, bổ sung quy định về
danh mục các khoản đầu tư bị cấm và hạn
10. Bộ Tài chính (2020), Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2019, Nxb. Tài chính, Hà Nội, tr.16.
nhantho.com.vn/print.asp?newsid=1097&lang=VN, truy cập ngày 23/9/2020.
30
Số 02(426) - T1/2021
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
khuyến khích các DNBH tham gia đầu tư.
Bên cạnh đó, cần quy định DNBH thực hiện
trích lập dự phòng rủi ro một cách khoa học,
sử dụng các công cụ chứng khoán phái sinh
để phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư hay
các phần mềm phân tích dự báo để quyết
định các chiến lược đầu tư.
động (C4). Trong đó: C1 là rủi ro bảo hiểm
được tính toán đối với mỗi loại rủi ro theo
dự phòng phí và dự phòng bồi thường; C2 là
rủi ro tài sản được tính toán dựa trên rủi ro
của thị trường khác nhau, bao gồm: nợ, vốn
chủ sở hữu, bất động sản và tỷ giá hối đoái.
C2 phản ánh cả sự không phù hợp giữa tài
sản và trách nhiệm; C3 là rủi ro tập trung
của tài sản nhất định, đối tác hoặc nhóm đối
tác (C3 được tính toán dựa trên rủi ro của
DN vượt quá giới hạn tập trung nhất định);
C4 là rủi ro hoạt động là rủi ro xuất phát từ
hạn chế về năng lực quản lý, quy trình và hệ
thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa đầy
đủ, đồng bộ.
Nhà nước cũng cần thực hiện chính
sách hướng dẫn việc tính toán số vốn tối
thiểu tương ứng với từng loại hình tài sản
đầu tư của DNBH cho phù hợp với định
hướng quản lý vốn trên cơ sở rủi ro. Theo
đó, cần xây dựng các hệ số rủi ro phân biệt
cho từng tài sản. Những DNBH đầu tư vào
các loại hình tài sản đầu tư có độ rủi ro cao,
tính thanh khoản thấp sẽ có yêu cầu về vốn
tối thiểu cao hơn so với các DNBH đầu tư
vào các tài sản có tính thanh khoản cao.
Ngoài ra, cần bổ sung yêu cầu về chế độ
báo cáo, công khai thông tin về tình hình
hoạt động đầu tư để cơ quan quản lý có thể
kiểm soát và cảnh báo sớm các rủi ro.
Bên cạnh đó, bổ sung quy định yêu
cầu các DNBH nhân thọ phải tính toán
mức vốn cần thiết tối thiểu tương ứng với
các rủi ro của doanh nghiệp. Tổng thể rủi
ro TRR (Total Risk Requirement) của
DNBH là tổng các yêu cầu rủi ro của từng
quỹ bảo hiểm trong doanh nghiệp: TRR =
C1+C2+C3+C412.
Trong điều kiện Việt Nam, thị trường
tài chính đang trong giai đoạn phát triển,
cơ sở dữ liệu báo cáo cho cơ quan quản lý
chưa thống nhất, chi phí và nguồn nhân lực
còn hạn chế, Chính phủ nên nghiên cứu lộ
trình xây dựng mô hình vốn trên cơ sở rủi
ro bằng cách tham khảo một mô hình sẵn có
tương tự như Singapore và điều chỉnh cho
phù hợp với Việt Nam, cụ thể như:
6. Kết luận
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng, việc mở cửa thị trường
bảo hiểm theo cam kết là bắt buộc. Điều
đó đòi hỏi các quy định của pháp luật điều
chỉnh đối với chế độ tài chính của DNBH
nói chung và DNBH nhân thọ nói riêng
cần có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi trong thời
- Xây dựng mô hình vốn trên cơ sở 4
loại rủi ro: Rủi ro bảo hiểm (C1), rủi ro tài
sản (C2), rủi ro tập trung (C3) và rủi ro hoạt
gian sắp tới
voi-doanh-nghiep-bao-hiem-phi-nhan-tho-310316.html, truy cập ngày 20/9/2020.
Số 02(426) - T1/2021
31
Bạn đang xem tài liệu "Chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- che_do_tai_chinh_cua_doanh_nghiep_bao_hiem_nhan_tho_tai_viet.pdf