Lựa chọn mô hình quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước

KINH TEÁ TAØI CHÍNH  
löÏa choÏn moâ hình quaûn lyù voán  
Doanh nghieäp nhaø nöÔùc  
TRịNH THị PHƯơNG MAI*  
au nhiều thảo luận, đề xuất, Đề án thành lập cơ quan chuyên trách đại diện chủ sở hữu với  
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và vốn nhà nước tại DN đã được chốt lại ở hai mô hình để  
lựa chọn. Song, lựa chọn mô hình nào để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả là bài  
S
toán cần cân nhắc.  
Mô hình thứ nhất là thành lập mới một Ủy ban thuộc Chính phủ với 2 phương án. Một là thành lập  
trên cơ sở điều chuyển cán bộ từ các bộ, ngành liên quan và Tng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà  
nước (SCIC). Hai là nâng cấp SCIC thành Ủy ban. Mô hình thứ hai cơ quan chuyên trách là doanh nghiệp  
trên cơ sở nâng cấp SCIC.  
Mỗi mô hình có thế mạnh riêng  
Trong khi đó, mô hình doanh nghiệp thì có ưu  
điểm lớn là về phương diện đầu tư vốn để sinh lời,  
tạo động lực, trách nhiệm và phù hợp hơn với hoạt  
động kinh doanh vốn nhà nước. Song, do vthế  
pháp lý và chính tryếu nên không dễ chuyển các  
Tập đoàn, Tổng công ty về doanh nghiệp này quản  
lý; do cơ chế kinh doanh vì lợi nhuận nên khó thực  
hiện chức năng đầu tư phát triển các ngành, lĩnh  
vực nền tảng, cần tới vai trò của doanh nghiệp nhà  
nước và của kinh tế nhà nước...  
Phân tích về điểm mạnh, yếu của 2 mô hình,  
TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản  
lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, mỗi mô  
hình đều có những lợi thế riêng. Mô hình cơ quan  
thuộc Chính phủ có vthế pháp lý và chính trị  
mạnh hơn mô hình doanh nghiệp, trong việc thực  
hiện đầy đủ chức năng đầu tư và kinh doanh vốn  
nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là nhiệm vụ đầu  
tư phát triển các ngành, lĩnh vực cần tới vai trò  
của doanh nghiệp nhà nước và vốn đầu tư nhà  
nước. Tuy nhiên, do là cơ quan nhà nước nên việc  
khuyến khích động lực và trách nhiệm nâng cao  
hiệu quả quản lý chưa rõ ràng và cụ thể như mô  
hình doanh nghiệp.  
eo ông Cung, cơ quan quản lý vốn nhà nước  
phải là một nhà đầu tư chủ động, trả lời được các  
câu hỏi mà hiện tại Chính phủ cũng không dễ đưa  
ra như: “Hiện đang có bao nhiêu tài sản công có  
tính thương mại, nằm ở đâu, dưới dạng nào, cái  
*Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội  
56 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
nào đang sinh lợi, cái nào kém hiệu quả, cái nào  
cần tiếp tục để thực hiện mục tiêu phát triển kinh  
tế hay vốn “mồi, cái nào cần thoái để trả lại không  
gian cho đầu tư tư nhân?...”  
Mô hình doanh nghiệp phù hợp hơn  
Dựa trên những phân tích về ưu-nhược điểm  
của hai mô hình này, ông Đặng Quyết Tiến - Phó  
Cục trưởng, Cục Tài chính Doanh nghiệp (Bộ Tài  
chính) đề xuất xem xét mô hình tổ chức đại diện  
chủ sở hữu theo mô hình Công ty đầu tư kinh  
doanh vốn nhà nước.  
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là sẽ không có  
một cơ quan vừa làm chức năng hoạch đnh chính  
sách, điều tiết, quản lý thtrường, lại vừa quyết đnh  
đầu tư, kinh doanh. “Dù gọi với cái tên gì đi chăng  
nữa thì cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở  
hữu nhà nước tại doanh nghiệp sẽ phải hạn chế tối  
đa sự can thiệp hành chính và can thiệp chính trị  
mang tính vụ việc vào quản lý và sử dụng tài sản  
nhà nước, làm sai lệch mục tiêu chiến lược và dài  
hạn của đầu tư nhà nước, ông Cung nhấn mạnh.  
Về đa vpháp lý, Công ty đầu tư kinh doanh  
vốn nhà nước tổ chức theo hình thức Công ty  
TNHH MTV thuộc Chính phủ; tổ chức, quản lý và  
hoạt động quy đnh của Luật Doanh nghiệp và Luật  
số 69/2014/QH13, sẽ giúp cho mô hình công ty đầu  
tư vốn nhà nước hoàn thiện hơn, đảm bảo thực thi  
tốt 3 nội dung.  
Cũng phân tích từ khía cạnh mạnh – yếu của  
mỗi mô hình, ông Nguyễn Xuân ành - Giám đốc  
Phát triển, Trường Đại học Fulbright Việt Nam  
khẳng đnh: “Sẽ không có phương án nào đáp ứng  
được toàn bộ các mục tiêu đề ra mà phải lựa chọn  
phương án tối ưu hơn bằng cách xác đnh mục tiêu  
nào là quan trọng nhất. eo đó, mô hình doanh  
nghiệp có điểm thuận lợi nhất là tập trung vào việc  
tối đa hoá hiệu quả hoạt động và gắn động cơ của  
mô hình doanh nghiệp đấy với hiệu quả là tối đa  
hoá lợi ích cổ đông trong đó Nhà nước với vai trò là  
một cổ đông trong doanh nghiệp. Trong khi đó, mô  
hình một cơ quan nhà nước vẫn thúc đẩy doanh  
nghiệp nhà nước thực hiện mục tiêu chính tr, kinh  
tế-xã hội.  
ứ nhất, mô hình công ty sẽ thay đổi cách  
thức quản lý và nhân lực, không chỉ thực hiện vai  
trò cổ đông thụ động tại công ty cổ phần, mà còn  
phải thực hiện trách nhiệm của chủ sở hữu doanh  
nghiệp nhà nước với nhiều công việc phức tạp và  
khó khăn hơn như bổ nhiệm cán bộ, phê duyệt  
kế hoạch sản xuất kinh doanh, giám sát, đánh giá  
doanh nghiệp, phê duyệt hoặc quyết đnh các dự án  
đầu tư lớn của doanh nghiệp...  
ứ hai, dễ dàng áp dụng hệ thống quản trị  
doanh nghiệp, quản trvốn đầu tư theo đúng thông  
lệ quốc tế, thúc đẩy nguyên tắc bắt buộc công khai,  
minh bạch thông tin tài chính, thông tin hoạt động  
sản xuất kinh doanh và tăng trách nhiệm giải trình  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Số 115 - tháng 5/2017 57  
KINH TEÁ TAØI CHÍNH  
của Ban lãnh đạo công ty, gắn trách nhiệm chính  
trcủa người đứng đầu công ty trước bộ, ngành,  
Chính phủ, Quốc hội và Trung ương về kết quả  
hoạt động sản xuất kinh doanh.  
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn  
nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh.  
eo đó, sẽ không thiết lập cơ chế cấp trên - cấp  
dưới theo mô hình công ty mẹ - công ty con đối với  
các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, không tạo  
ra sự xung đột, cản trở công tác điều hành, quản trị  
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng  
thời sẽ thống nhất lợi ích gia tăng lợi nhuận đối với  
các doanh nghiệp kinh doanh...  
Đây chính là lời giải cho bài toán về mối quan  
hệ trong điều hành sản xuất kinh doanh khi thực  
hiện chuyển quyền đại diện vốn nhà nước từ các  
Tập đoàn, Tổng công ty quy mô lớn về thuộc  
quyền quản lý của mô hình doanh nghiệp; và  
giúp doanh nghiệp làm tốt công tác tham mưu,  
phối hợp với các bộ chuyên ngành lựa chọn cán  
bộ lãnh đạo chủ chốt trình Thủ tướng Chính phủ  
xem xét, bổ nhiệm.  
“Như vậy, việc lựa chọn mô hình nào phù hợp  
nhất, thuận lợi và có hướng đến phát triển trong  
ơng lại cần được xem xét cặn kẽ tránh việc phải  
sửa chữa, hoàn thiện nhiều lần. Xuất phát từ yêu  
cầu đó, chúng tôi cho rằng mô hình tổ chức đại  
diện chủ sở hữu vốn nhà nước theo hình thức công  
ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước cần được phân  
tích, đánh giá đúng những điểm mạnh vốn có của  
mô hình, ông Tiến nói.  
ứ ba, khi chuyển các doanh nghiệp nhà nước  
và doanh nghiệp có vốn nhà nước về mô hình công  
ty, thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu đối với vốn  
nhà nước tại doanh nghiệp sẽ tham gia phối hợp  
giúp Chính phủ, ủ tướng Chính phủ ban hành  
và thực hiện chính sách sắp xếp, đổi mới doanh  
nghiệp nhà nước và đầu tư phát triển các ngành  
cần tới vai trò của doanh nghiệp nhà nước sát thực  
tiễn, đảm bảo công khai, minh bạch hơn.  
Ưu tiên tính hiệu quả  
Xem xét từ tính hiệu quả của hai mô hình này,  
ông Nguyễn Xuân ành cho rằng, thời gian qua  
chúng ta đặt quá nặng và yếu tố chính tr, sử dụng  
doanh nghiệp nhà nước làm công cụ để điều tiết  
kinh tế vĩ mô và chính vì vậy chúng ta đã gặp phải  
một số trục trặc hiện nay như về hiệu quả thấp, các  
dự án đầu tư không tuân thủ theo nguyên tắc thị  
trường như 12 dự án nghìn tỷ đồng thua lỗ, yếu  
kém trong ngành công thương.  
Nhà nước là chủ sở hữu của doanh nghiệp đầu  
tư vốn nhà nước. Chính phủ thống nhất thực hiện  
quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với  
cơ quan chuyên trách. ủ tướng Chính phủ trực  
tiếp thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu theo  
phân công của Chính phủ.  
Công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước  
sẽ đảm nhận là cơ quan đại diện chủ sở hữu của  
doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước chuyển  
giao từ các bộ, ngành, đa phương, bao gồm cả  
doanh nghiệp nhà nước và phần vốn nhà nước do  
SCIC hiện nay quản lý.  
Do đó, vgiảng viên Fulbright đề xuất, thứ  
tự ưu tiên là hiệu quả kinh doanh, tuân theo các  
nguyên tắc của thtrường, chức năng quản lý nhà  
nước đã tách bạch. Mục tiêu phải là hiệu quả kinh  
doanh của doanh nghiệp là cao nhất chứ không  
phải là mục tiêu chính tr, phát triển kinh tế xã  
hội chung chung.  
Về phương diện quản lý kinh tế và quản trkinh  
doanh, mô hình doanh nghiệp sẽ tạo động lực,  
trách nhiệm và phù hợp hơn với hoạt động quản  
lý vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh.  
Nhờ đó, việc giám sát, đánh giá của Nhà nước cũng  
thuận tiện và dễ dàng hơn so với mô hình cơ quan  
hành chính nhà nước.  
“Và như vậy, mô hình doanh nghiệp là tốt hơn.  
Điểm quan trọng hơn là trong mô hình doanh  
nghiệp, không phải Công ty đầu tư vốn nhà nước  
như là siêu doanh nghiệp, mà quan trọng là: trong  
mô hình công ty quản lý vốn hay quy đầu tư, mọi  
cơ chế phải gắn liền với hiệu quả hoạt động doanh  
nghiệp, ông ành kết luận.  
Công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước sẽ đảm  
bảo nguyên tắc là người đồng hành cùng với các  
58 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
choáng thaát thoaùt, laõng phÍ  
taøi saûn coâng  
DUY áNH  
ài sản công đang được điều chỉnh bởi nhiều luật song lại chưa bao quát thực tiễn trong quá  
trình quản lý loại tài sản này. Bên cạnh đó, quy định xử phạt rất chung chung dẫn đến tình  
trạng nhiều vi phạm vẫn diễn ra liên tục. Đây là những điểm đáng ngại trong công tác quản  
T
lý tài sản công hiện nay.  
Hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế  
hành được danh mục và ưu đãi về tiền thuê đất,  
tiền sử dụng đất.  
Đánh giá về hệ thống pháp luật quản lý tài sản  
công hiện hành, ông Nguyễn Tân nh, Phó Cục  
trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính) cho  
rằng vẫn còn rất nhiều hạn chế, trong đó, điểm  
đáng chú ý nhất là hệ thống pháp luật. Hiện việc  
quản lý, sử dụng tài sản công của chúng ta được  
điều chỉnh bởi rất nhiều luật khác nhau, chưa có  
một luật nào quy đnh những quyên tắc chung  
trong quản lý, sử dụng tài sản công.  
Quy nhà đất của các cơ quan, đơn vmặc dù  
chiếm tỷ trọng lớn nhưng hiệu suất sử dụng chưa  
cao. eo thống kê, nhà cấp ba, cấp bốn vẫn chiếm  
một tỷ trọng cao. Còn có những tình trạng sử  
dụng không đúng mục đích thì trong thực tế có,  
có những trường hợp còn bố trí nhà ở trong khuôn  
viên cơ quan, hoặc sử dụng cho thuê, liên doanh,  
liên kết.  
eo ông nh, việc xử lý tài sản công của  
chúng ta hiện nay cũng như công tác quản lý nói  
chung đã phân cấp tương đối mạnh cho các cơ  
quan, đơn vvà các cơ quan, đơn vđều thực hiện  
các công việc giống nhau nên việc xử lý bmanh  
mún, phân tán.  
Do vậy, đối với mỗi loại tài sản cụ thể, tùy theo  
mục tiêu quản lý chuyên ngành mà có các quy đnh  
về chế độ sử dụng khác nhau, chưa có những mục  
tiêu chung. Trong hệ thống văn bản có những điểm  
chưa đầy đủ, chưa phù hợp và còn chồng chéo. Bên  
cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật chưa bao quát  
được thực tiễn, vì một cơ quan, đơn vở đồng bằng  
thì khác với một cơ quan ở miền núi.  
Vn còn tư tưởng bao cấp  
Khá đồng tình với ý kiến của ông nh, PGS.  
TS Đinh Văn Nhã, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài  
chính và Ngân sách của Quốc hội cho rằng, một  
trong những hạn chế rất lớn là quản lý tài sản công  
chưa gắn với quản lý theo giá tr. Mặt khác, theo  
ông Nhã, về cơ bản vẫn còn tư tưởng bao cấp, cán  
bộ thi hành nghiệp vụ không chuyên nghiệp, có khi  
là kiêm nhiệm... dẫn đến hạn chế rất lớn là nhiều  
dch vụ công liên quan đến tài sản công hiện nay cơ  
bản vẫn do cơ quan nhà nước làm, mà đáng ra phải  
tạo một cơ chế để phát triển thtrường dch vụ này.  
Về phương thức trang btài sản hiện nay, chủ  
yếu chúng ta vẫn thiên về hiện vật, như trang bị  
ô tô, máy tính… còn việc sử dụng các công cụ thị  
trường như thuê, khoán, sử dụng các hình thức đối  
tác công- tư trong việc đầu tư xây dựng, quản lý,  
vận hành đối với quản lý tài sản công còn ít.  
Tài sản trong khu vực hành chính sự nghiệp  
hiện nay chiếm xấp xỉ 70% tổng tài sản của các  
cơ quan, đơn v. Tuy nhiên việc đổi mới cơ chế  
quản lý trong thưc tế còn chậm. Việc thực hiện  
các chính sách khuyến khích xã hội hóa các lĩnh  
vực sự nghiệp công theo Quyết đnh của Chính  
phủ hiện còn chậm. Một số đa phương chưa ban  
Điều này có thể thấy rõ qua việc giao đất. Trước  
đây một thời gian dài, phần lớn đất đai sản xuất là  
chúng ta giao đất không thu tiền. Nhưng từ khi có  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Số 115 - tháng 5/2017 59  
KINH TEÁ TAØI CHÍNH  
Luật Đất đai 2013, cơ bản đã chuyển sang cho thuê,  
đây là một phương pháp quản lý đất gắn với thị  
trường. Mặc dù chúng ta cho thuê với giá rất thấp  
nhưng đã thể hiện một sự tiến bộ để đạt được mục  
tiêu công bằng và mục tiêu cao hơn là sử dụng hiệu  
quả tài sản của Nhà nước.  
Do đó, dù sắp tới hệ thống pháp luật của Việt  
Nam có đầy đủ, bảo đảm được yêu cầu quản lý  
thống nhất sau khi Quốc hội thông qua Luật  
Quản lý, sử dụng tài sản công thì một trong những  
vấn đề quan trọng để đưa luật này vào cuộc sống  
chính là vấn đề công khai, minh bạch thông tin về  
tài sản công.  
Một ví dụ khác có thể xem xét là khoán xe công,  
mua sắm công tập trung một số các mặt hàng. Hay  
thí điểm quản lý ngân sách nhà nước hàng năm  
theo phương pháp quản lý kết quả đầu ra ở 5 đa  
phương, 5 bộ và đã đạt được nhiều kết quả quan  
trọng. Như vậy, những phương pháp quản lý tài  
sản công hiện đại đã ghi nhận được những kết quả  
quan trọng.  
Các cơ quan theo quy đnh của luật được giao  
cho quyền quản lý và sử dụng, khai thác, kể cả các  
cơ quan cung cấp dch vụ cho quản lý tài sản công  
phải thông tin công khai. Bất cứ một đối tượng nào  
dù là người dân ngồi ở nhà vào mạng cũng có thể  
biết xem bộ này, ngành này, đa phương này thậm  
chí là đơn vtài khoản cấp 2, cấp 3 sử dụng tài sản  
công mua sắm như thế nào.  
Nhận xét về những phương pháp quản lý tài sản  
công kể trên, ông Nhã phàn nàn là những phương  
pháp đó được luật hóa muộn quá, áp dụng trong  
phạm vi quá hẹp nên thành tựu chưa lớn, tác động  
ảnh hưởng của chưa rộng. Nhìn từ góc độ luật  
pháp, đây chính là lỗ hổng của pháp luật.  
“Nếu chúng ta tổ chức tốt, hướng dẫn tốt thì sắp  
tới người dân sẽ có thông tin số liệu là những con  
số biết nói, có thuyết minh chi tiết. Từ đó, có nền  
tảng cơ sở sữ liệu từ người có trách nhiệm cung  
cấp rồi người được tiếp cận thông tin rất là phong  
phú đa dạng. Người dân có quyền tố cáo, khiếu nại  
về những người có quyền được giao quyền quản  
lý sử dụng tài sản là anh không minh bạch, không  
công khai theo quy đnh của pháp luật. Nếu ta làm  
nghiêm như vậy về hệ thống thông tin cả nước sẽ  
rất minh bạch. eo tôi thông tin phải nhiều chiều  
mới đáp ứng được yêu cầu quản lý, ông Nhã nói.  
“Một điểm hạn chế cực lớn nữa, trong quản lý,  
sử dụng tài sản công hiện nay là các quy đnh xử  
phạt pháp luật, các chế tài xử lý còn hết sức hạn chế,  
chung chung nên vi phạm xảy ra liên tục, lặp đi lặp  
lại, có thể năm sau mức độ nặng hơn năm trước,  
diện rộng hơn... Tôi cho rằng chế tài của chúng ta  
còn bao che, dung túng tội phạm hơn là xử lý tội  
phạm bởi vì tính răn đe thấp, ông Nhã nhấn mạnh.  
60 Số 115 - tháng 5/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
pdf 5 trang yennguyen 19/04/2022 1300
Bạn đang xem tài liệu "Lựa chọn mô hình quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdflua_chon_mo_hinh_quan_ly_von_doanh_nghiep_nha_nuoc.pdf