Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án bất động sản
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN
Võ Trung Tín*
Trương Văn Quyền**
* TS. Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.
** Luật sư, NCS, Truong Gia InvestConsult.
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Trải qua hơn 5 năm thực hiện Luật Kinh doanh bất động sản (BĐS)1,
thị trường BĐS đã có những khởi sắc và biến chuyển đáng kể, đặc biệt
là hoạt động chuyển nhượng dự án BĐS diễn ra mạnh mẽ. Các dự án bị
“trùm mền” được chuyển giao lại cho các chủ đầu tư có năng lực tiếp tục
thực hiện bằng hoạt động chuyển nhượng dự án, đảm bảo sự phục hồi
và phát triển của thị trường BĐS Việt Nam giai đoạn 2015-2020. Tuy
nhiên, pháp luật về chuyển nhượng dự án BĐS vẫn còn bộc lộ nhiều bất
cập, tạo nên rào cản cho hoạt động này, đồng thời chưa cân bằng được lợi
ích của các bên. Với vai trò là một nội dung chính của Luật Kinh doanh
BĐS và chi phối, tác động trực tiếp đến hoạt động chuyển nhượng dự án
BĐS, các quy định của Luật Kinh doanh BĐS và pháp luật có liên quan
về chuyển nhượng dự án BĐS cần được tiếp tục đánh giá và hoàn thiện
hơn trong bối cảnh mới, tạo nên một khung pháp lý hoàn chỉnh, mang
lại hiệu quả và đóng góp vào sự phục hồi, phát triển của thị trường, của
nền kinh tế.
Từ khóa: Bất động sản, kinh
doanh bất động sản, nhà ở thương
mại, chuyển nhượng dự án.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 07/01/2021
: 18/01/2021
: 20/01/2021
Article Infomation:
Abstract:
Keywords: Real estate, real
estate trading, commercial
housing, project transfer.
After more than 5 years of enforcement, the Law on Real Estate
Business, the real estate market has prospered and changed significantly,
especially the strong transfer of real estate projects. Projects known
as "blanket covered”" are transferred to qualified investors for further
implementation by project transfer activities, ensuring the recovery
and development of Vietnam's real estate market in the period of
2015- 2020. However, the provisions on real estate project transfer still
reveals shortcomings as barriers for this activity, and not balancing the
interests of the parties. As key provisions of the Law on Real Estate
Business and governing and directly affecting the transfer of real estate
projects, the provisions of the Law on Real Estate Business and related
laws on the transfer of real estate projects. need to be further evaluated
and improved in the new context, creating a complete legal framework,
bringing efficiency and contributing to the recovery and development of
the market and the economy.
Article History:
Received
Edited
: 07 Jan. 2021
: 18 Jan. 2021
: 20 Jan. 2021
Approved
86
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Khái quát các quy định chuyển nhượng
dự án bất động sản1
động chuyển nhượng dự án BĐS là các dự
án đầu tư kinh doanh xây dựng nhà ở thương
mại để bán. Theo đó, dự án đầu tư xây dựng
nhà ở là tổng hợp các đề xuất có liên quan
đến việc sử dụng vốn để xây dựng mới nhà
ở, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội phục vụ nhu cầu ở hoặc để cải tạo, sửa
chữa nhà ở trên một địa điểm nhất định4 và
chuyển nhượng dự án BĐS là việc các bên
thực hiện hoạt động chuyển nhượng dự án
đầu tư xây dựng nhà ở thương mại theo quy
định của Luật Kinh doanh BĐS, Luật Nhà ở
và pháp luật có liên quan.
Cùng với sự phát triển của thị trường
và nền kinh tế, hoạt động chuyển nhượng
dự án bất động sản (BĐS) là một hoạt động
tất yếu và khách quan, việc các chủ đầu tư
không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án
tiến hành chuyển nhượng cho những chủ đầu
tư mới có năng lực triển khai hoàn thành dự
án làm thúc đẩy và tạo động lực mới cho sự
phát triển của thị trường. Thời gian qua, sau
đợt suy thoái của thị trường BĐS bắt đầu từ
năm 2011 thì giai đoạn từ năm 2015-2020 là
giai đoạn phục hồi, phát triển của thị trường.
Giai đoạn này ghi nhận hoạt động chuyển
nhượng dự án diễn ra sôi nổi và đạt hiệu quả
cao, nhiều dự án bị “trùm mền” nhiều năm
đã được hồi sinh, hoàn thành đưa vào sử
dụng. Điều này thể hiện sự tất yếu của chu
kỳ kinh tế thị trường và sự đóng góp tích cực
của pháp luật về kinh doanh BĐS điều chỉnh
hoạt động chuyển nhượng dự án, điển hình
là việc Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 có
hiệu lực với nhiều nội dung tiến bộ, mở rộng
hơn Luật Kinh doanh BĐS năm 2006.
Theo quy định của Điều 48 Luật Kinh
doanh BĐS năm 2014, chủ đầu tư dự án BĐS
được quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một
phần dự án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục
đầu tư kinh doanh nhưng phải đảm bảo các
nguyên tắc sau: (a) Không làm thay đổi mục
tiêu của dự án; (b) Không làm thay đổi nội
dung của dự án; (c) Bảo đảm quyền lợi của
khách hàng và các bên có liên quan; (d) Việc
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án
BĐS phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định việc đầu tư đồng ý bằng văn
bản. Chủ đầu tư nhận chuyển nhượng được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
hoặc được đăng ký biến động vào giấy chứng
nhận đã cấp cho chủ đầu tư chuyển nhượng
theo quy định của pháp luật về đất đai.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015, BĐS bao gồm đất đai, nhà, công trình
xây dựng gắn liền với đất đai, tài sản khác
gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng
và tài sản khác theo quy định của pháp luật2.
Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 định
nghĩa việc kinh doanh BĐS là việc đầu tư vốn
để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận
chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho
thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS; thực
hiện dịch vụ môi giới BĐS; dịch vụ sàn giao
dịch BĐS; dịch vụ tư vấn BĐS hoặc quản lý
BĐS nhằm mục đích sinh lợi3. Trong phạm
vi bài viết này, tác giả chỉ phân tích hoạt
Điều kiện của chủ thể thực hiện việc
chuyển nhượng và điều kiện của dự án BĐS
chuyển nhượng được Luật Kinh doanh BĐS
năm 2014 quy định khá rõ ràng. Theo đó,
chủ đầu tư chuyển nhượng dự án phải đảm
bảo đã có giấy chứng nhận về quyền sử dụng
đất đối với toàn bộ hoặc phần dự án chuyển
nhượng5; chủ đầu tư nhận chuyển nhượng dự
1. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015.
2. Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
4. Khoản 8 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014.
5. Khoản 2 Điều 49 Luật Kinh doanh bất động sản 2014.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
87
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
án phải là doanh nghiệp kinh doanh BĐS, có
đủ năng lực tài chính và cam kết tiếp tục việc
triển khai đầu tư xây dựng, kinh doanh theo
đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tiến
độ, nội dung dự án6. Điều kiện về giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của dự án không yêu
cầu cụ thể là đã thực hiện việc chuyển mục
đích sử dụng đất để đảm bảo thực hiện đúng
mục tiêu của dự án hay chưa. Đối với bên
nhận chuyển nhượng phải đáp ứng các yêu
cầu bắt buộc khi trở thành chủ đầu tư của một
dự án BĐS để tiếp tục triển khai dự án7. Về
điều kiện của dự án đưa vào chuyển nhượng
phải đáp ứng các điều kiện được Luật Kinh
doanh BĐS quy định như quy hoạch, hoàn
thành việc bồi thường, giải phóng mặt bằng
và xây dựng kết cấu hạ tầng, không có tranh
chấp hay đảm bảo thi hành án, không bị thu
hồi hay xử phạt vi phạm hành chính.
nghĩa vụ thông báo kịp thời, đầy đủ, công
khai và giải quyết thỏa đáng quyền và lợi ích
khách hàng và các bên liên quan tới dự án,
phần dự án chuyển nhượng8. Ngoài những
quyền và nghĩa vụ được luật định, các bên
có thể thỏa thuận thêm các điều khoản trong
hợp đồng chuyển nhượng một phần hoặc
toàn bộ dự án BĐS theo sự tự nguyện và tự
do ý chí của các bên không vi phạm điều cấm
của pháp luật. Đồng thời, các bên phải thực
hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và
theo quy định.
Một trong những nội dung đáng lưu ý
về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt
động chuyển nhượng dự án BĐS là chỉ quy
định về quyền và nghĩa vụ của bên chuyển
nhượng và bên nhận chuyển nhượng dự án,
trong khi đó quyền và nghĩa vụ của khách
hàng và bên liên quan đến một phần hoặc
toàn bộ dự án chuyển nhượng chỉ được đề
cập đến như một nguyên tắc cần được bảo
đảm trong hoạt động chuyển nhượng dự án,
và là một phần nghĩa vụ của bên chuyển
nhượng9. Trong khi đó, những chủ thể này có
quyền lợi liên quan trực tiếp đến dự án, phần
dự án chuyển nhượng và quyền, nghĩa vụ của
những chủ thể này bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
hoạt động chuyển nhượng dự án. Tuy nhiên,
việc đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ
thể này vẫn chưa được pháp luật đề cập một
Điều 52 Luật Kinh doanh BĐS năm
2014 liệt kê một số quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hoạt động chuyển nhượng dự
án BĐS, chủ yếu xoay quanh các quyền và
nghĩa vụ khi thực hiện việc chuyển giao và
tiếp nhận dự án, chuyển giao quyền và nghĩa
vụ từ chủ đầu tư cũ sang cho chủ đầu tư mới
khi tiếp tục triển khai dự án, phối hợp để làm
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho bên
nhận chuyển nhượng theo quy định của pháp
luật về đất đai, bên chuyển nhượng phải có
6. Khoản 3 Điều 49 Luật Kinh doanh bất động sản 2014.
7. Về mặt chủ thể: Doanh nghiệp nhận chuyển nhượng phải có đăng ký ngành nghề kinh doanh bất động sản,
đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 và văn bản
hướng dẫn. Về năng lực tài chính: chủ đầu tư cần đáp ứng điều kiện về năng lực tài chính để bảo đảm việc sử
dụng đất theo tiến độ của dự án, cụ thể: Có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20%
tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư
đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên và có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ
các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Luật đất
đai năm 2013 và văn bản hướng dẫn thi hành.
8. Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản.
9. Điểm b khoản 1 Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định: “b) Chuyển giao hồ sơ liên
quan cho bên nhận chuyển nhượng; thông báo kịp thời, đầy đủ, công khai và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi
ích hợp pháp của khách hàng và các bên liên quan tới dự án, phần dự án chuyển nhượng”; Và điểm c khoản
1 Điều 48 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định: “c) Bảo đảm quyền lợi của khách hàng và các
bên có liên quan”.
88
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
cách cụ thể, chưa có cơ chế rõ ràng.
trong hợp đồng mẫu nhưng hợp đồng do các
bên ký kết phải bảo đảm có đầy đủ các nội
dung chính đã được quy định tại Điều 18,
Điều 47 và Điều 53 Luật Kinh doanh BĐS
năm 2014 và nội dung cụ thể trong hợp đồng
do các bên thỏa thuận nhưng không được trái
với quy định của pháp luật14.
Về hợp đồng chuyển nhượng dự án
BĐS, Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 và
Nghị định số 76/2015/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh
doanh BĐS năm 2014 đã đưa ra các nội
dung cơ bản, yêu cầu bắt buộc của hợp đồng
chuyển nhượng dự án BĐS. Như vậy, dựa
trên tính đặc thù của hoạt động này, pháp
luật quy định cụ thể một số nội dung các bên
bắt buộc phải đưa vào hợp đồng và được lập
thành một hợp đồng mẫu trong kinh doanh
BĐS để các bên tham khảo áp dụng10. Cụ
thể, Điều 53 Luật Kinh doanh BĐS đã quy
định cụ thể các nội dung cơ bản của một
hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ hoặc một
phần dự án BĐS11. Về mặt nguyên tắc, hợp
đồng là sự tự do ý chí thỏa thuận giữa các
bên không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội12 và hợp đồng được tạo
ra bởi sự ưng thuận giữa hai hoặc nhiều bên
ký kết hợp đồng, tức hai điều kiện cần để
tạo ra hợp đồng là chủ thể ký kết hợp đồng
và chủ đích của sự ưng thuận13; do đó, hợp
đồng chuyển nhượng dự án BĐS cũng là
sự tự do thỏa thuận giữa các bên trong hoạt
động chuyển nhượng dự án. Tuy nhiên, cần
phải tuân thủ một số nội dung cơ bản do luật
định. Từ đó, pháp luật về kinh doanh BĐS
cũng đã nêu rõ việc đưa ra hợp đồng mẫu
trong hoạt động chuyển nhượng dự án là để
các bên tham khảo trong quá trình thương
thảo, ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa
thuận để sửa đổi, bổ sung các điều, khoản
Về thẩm quyền cho phép chuyển
nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án BĐS,
Điều 50 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương quyết định cho
phép chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần
dự án BĐS đối với các dự án do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định việc đầu tư;
Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án
BĐS đối với dự án do Thủ tướng Chính phủ
quyết định việc đầu tư. Trình tự, thủ tục, nội
dung thẩm định và thành phần hồ sơ chuyển
nhượng dự án BĐS được quy định tại Điều
51 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 và Nghị
định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của
Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Kinh doanh BĐS năm 2014,
Quyết định số 832/QĐ-BXD ngày 29/8/2016
của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc “Công
bố thủ tục hành chính được thay thế và thủ
tục hành chính bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ trong
lĩnh vực kinh doanh BĐS thuộc phạm vi chức
năng quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng”15.
Có thể thấy rằng, Luật Kinh doanh BĐS
năm 2014 có những tiến bộ và cởi mở hơn so
với Luật Kinh doanh BĐS năm 2006. Luật
10. Khoản 5 Điều 6 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP.
11. Các nội dung cơ bản của hợp đồng được quy định cụ thể tại Điều 53 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
12. Trần Kiên, Nguyễn Khắc Thu, “Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp
luật hợp đồng Việt Nam”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210246, truy cập ngày
22/12/2020.
13. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất
bản, Sài Gòn, 1963, tr. 56–57.
14. Điều 7 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP và điểm 1, mục II Công văn số 1436/BXD-QLN ngày 30/06/2015
của Bộ Xây dựng về việc Thực hiện Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 và Luật Kinh doanh bất động sản số
66/2014/QH13.
15. Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
89
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
đã xây dựng được hệ thống quy định tương
đối chi tiết, toàn diện về nguyên tắc, điều
kiện, quy trình chuyển nhượng, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động chuyển
nhượng dự án BĐS, mở rộng phạm vi cho
phép chủ đầu tư được chuyển nhượng một
phần dự án thay vì chỉ được chuyển nhượng
toàn bộ dự án như trước đây16. Những tiến
bộ của pháp luật đã góp phần cởi trói cho
thị trường BĐS, đem lại những tác động
tích cực đến thị trường, đẩy mạnh hoạt động
chuyển nhượng dự án để các chủ đầu tư có
năng lực tiếp tục triển khai hoàn thành dự án,
cung cấp nguồn vốn cho các chủ đầu tư đang
gặp khó khăn tài chính có thể khắc phục hoạt
động kinh doanh, ngoài ra cũng giúp khách
hàng có thể sở hữu được những sản phẩm
BĐS như mong muốn, đóng góp đáng kể vào
ngân sách nhà nước.
quyết định chủ trương đầu tư theo Luật
Đầu tư năm 2014, các bên thực hiện việc
chuyển nhượng dự án theo Luật Kinh doanh
BĐS năm 2014, và sau khi hoàn thành việc
chuyển nhượng dự án thì phải tiếp tục thực
hiện việc điều chỉnh quyết định chủ trương
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư do có
sự thay đổi thông tin của nhà đầu tư thực
hiện dự án. Cụ thể, theo khoản 4 Điều 40
Luật Đầu tư năm 2014 quy định đối với
các dự án thuộc diện phải quyết định chủ
trương đầu tư, khi thay đổi nhà đầu tư hoặc
thay đổi điều kiện đối với nhà đầu tư (nếu
có), cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện thủ
tục quyết định chủ trương đầu tư trước khi
điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
Điều này dẫn đến sự lúng túng, kéo dài thời
gian thực hiện thủ tục hành chính trong áp
dụng pháp luật của cả cơ quan thẩm quyền
và doanh nghiệp trong suốt thời gian qua.
Tức là dự án đã thực hiện hoàn thành việc
chuyển nhượng, thay đổi chủ đầu tư thực
hiện dự án lại phải tiếp tục thực hiện việc
điều chỉnh quyết định chủ trương đầu tư,
mặc dù về bản chất cũng chỉ là sự thay đổi
về chủ đầu tư thực hiện dự án.
2. Những bất cập trong quy định về
chuyển nhượng dự án bất động sản
2.1. Sự không thống nhất giữa Luật
Kinh doanh bất động sản và các luật có
liên quan
Thực tế hiện nay rất hiếm doanh nghiệp
có toàn bộ diện tích đất ở hợp pháp để được
chỉ định làm chủ đầu tư dự án đầu tư kinh
doanh nhà ở thương mại17 theo quy định
của Luật Nhà ở năm 2014. Do đó, hầu hết
các dự án đầu tư kinh doanh nhà ở thương
mại đều phải thực hiện việc quyết định chủ
trương đầu tư do cơ quan đăng ký đầu tư cấp
tỉnh chủ trì thẩm định và áp dụng theo Luật
Đầu tư năm 2014. Đến khi đủ điều kiện để
được chuyển nhượng dự án, chủ đầu tư nếu
vì lý do nào đó mà không thể tiếp tục thực
hiện dự án thì tiến hành hoạt động chuyển
nhượng dự án theo Luật Kinh doanh BĐS
năm 2014. Như vậy, theo quy trình hiện
nay, khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng
dự án BĐS là nhà ở thương mại đã được
Có thể nhận thấy rằng, về mặt bản chất,
việc doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư để đầu tư
dự án BĐS là nhà ở thương mại nhằm mục
đích thu lợi nhuận là một hoạt động đầu tư
đơn thuần theo pháp luật đầu tư và chịu sự
chi phối của Luật Đầu tư. Tuy nhiên, do hoạt
động đầu tư này mang tính chất một hoạt
động đặc thù, có liên quan đến kinh doanh
quyền sử dụng đất, thị trường BĐS và kế
hoạch phát triển nhà ở do đó cũng chịu sự
điều chỉnh của Luật Kinh doanh BĐS và Luật
Nhà ở. Do đó, nếu cùng một hoạt động, một
sự kiện pháp lý nhưng chịu sự điều chỉnh của
nhiều luật chuyên ngành dễ xảy ra tình trạng
thiếu nhất quán trong các văn bản pháp luật.
16. Đỗ Xuân Trọng, “Chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh bất động sản những bất cập từ Luật Kinh
doanh bất động sản 2014”, http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chuyen-nhuong-du-an-dau-tu-kinh-doanh-
bat-dong-san-nhung-bat-cap-tu-luat-kinh-doanh-bat-dong-san-2014-64929.htm, truy cập ngày 22/12/2020.
17. Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Nhà ở năm 2014.
90
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Điều này dẫn đến sự chồng chéo, trùng lắp
trong quá trình áp dụng pháp luật, gây khó
khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.
BĐS có thể gây nhầm lẫn, áp dụng thiếu
thống nhất trong thực hiện pháp luật.
2.2. Bất cập về chuyển nhượng một
phần dự án và chuyển nhượng toàn bộ dự
án bất động sản
Bên cạnh đó, giữa các văn bản pháp
luật hiện hành còn có sự thiếu thống nhất
trong sử dụng thuật ngữ “nhà đầu tư” hay
“chủ đầu tư”. Luật Đầu tư năm 2014 sử
dụng nhất quán thuật ngữ “nhà đầu tư” để
chỉ tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong
nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài18 Trong
khi đó, Luật Kinh doanh BĐS, Luật Nhà ở
lại sử dụng khái niệm “chủ đầu tư” để chỉ
doanh nghiệp thực hiện việc bỏ vốn để đầu
tư kinh doanh dự án BĐS, cụ thể, khoản 1
Điều 48 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014
quy định: “Chủ đầu tư dự án BĐS được
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự
án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục đầu tư
kinh doanh”; khoản 3 Điều 49 Luật Kinh
doanh BĐS năm 2014 quy định: “Chủ đầu
tư nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một
phần dự án BĐS phải là doanh nghiệp kinh
doanh BĐS, ….”; Điều 21 Luật Nhà ở năm
2014 quy định các điều kiện để làm chủ đầu
tư dự án xây dựng nhà ở thương mại; Điều
22 Luật Nhà ở năm 2014 quy định về lựa
chọn chủ đầu tư dự án.
Như đã đề cập trên đây, Luật Kinh
doanh BĐS năm 2014 cho phép nhà đầu tư
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án
đầu tư cho nhà đầu tư khác khi đáp ứng các
điều kiện được pháp luật quy định.
Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa quy định
như thế nào được xem là một phần dự án
được phép chuyển nhượng trong tổng thể
của một dự án, hay đưa ra các tiêu chí để xác
định một phần của dự án được phép đủ điều
kiện chuyển nhượng.
Trên thực tế, một số dự án đã được chủ
đầu tư tiến hành tách nhỏ để chuyển nhượng
một phần dự án nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh của mình, cụ thể chủ đầu tư có
thể chuyển nhượng phần dự án kinh doanh
thương mại dịch vụ trước trong tổng thể dự án
nhằm thu hồi vốn để tiếp tục phát triển phần
dự án còn lại. Điều này dẫn đến khả năng
dự án sẽ bị tách thành nhiều phần và chuyển
nhượng cho nhiều chủ đầu tư khác nhau làm
phân mảnh dự án, gây ảnh hưởng đến quy
hoạch chung của tổng thể dự án lúc ban đầu.
2.3. Vấn đề bảo vệ bên thứ ba trong
hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư kinh
doanh bất động sản chưa được đảm bảo
Khoản 9 Điều 3 Luật Xây dựng năm
2014 đưa ra định nghĩa: “Chủ đầu tư xây
dựng (sau đây gọi là chủ đầu tư) là cơ quan,
tổ chức, cá nhân sở hữu vốn, vay vốn hoặc
được giao trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để
thực hiện hoạt động đầu tư xây dựng”.
Trong hoạt động đầu tư kinh doanh
BĐS là dự án nhà ở thương mại hình thành
trong tương lai, sau khi đủ điều kiện luật
định19, chủ đầu tư sẽ thực hiện hoạt động
huy động vốn từ khách hàng, ngân hàng,
các tổ chức tài chính để có nguồn tài chính
thực hiện dự án20, ngoài ra, chủ đầu tư còn
Như vậy, việc sử dụng không thống nhất
giữa thuật ngữ “nhà đầu tư” trong Luật Đầu
tư và “chủ đầu tư” trong Luật Kinh doanh
18. Khoản 13 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014.
19. Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định cụ thể về điều kiện của bất động sản hình thành
trong tương lai được đưa vào kinh doanh.
20. Vốn để thực hiện cho việc phát triển nhà ở thương mại được Điều 69 Luật Nhà ở 2014 quy định gồm:“Vốn
thuộc sở hữu của chủ đầu tư; Vốn huy động; Tiền mua, tiền thuê mua, tiền thuê, nhà ở trả trước theo hợp đồng
mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai; Vốn vay từ tổ chức tín dụng, tổ chức tài
chính đang hoạt động tại Việt Nam”.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
91
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thực hiện ký kết hợp đồng với các nhà thầu,
nhà cung cấp vật tư xây dựng, các hợp đồng
tư vấn thiết kế, hợp đồng bảo lãnh của ngân
hàng thương mại21. Do đó, trong quá trình
này, chủ đầu tư dự án sẽ xác lập nhiều mối
quan hệ hợp đồng song vụ với các bên,
trong đó có thể nêu điển hình là khách hàng,
ngân hàng và nhà thầu.
mình liên quan đến dự án hoặc một phần dự
án chuyển nhượng thì chủ đầu tư chuyển
nhượng có trách nhiệm giải quyết theo quy
định của pháp luật trước khi ký hợp đồng
chuyển nhượng24. Tức là việc thông báo và
giải quyết các quyền lợi của khách hàng và
các bên liên quan đến dự án được thực hiện
sau khi có quyết định chấp thuận về việc
chuyển nhượng dự án của cơ quan thẩm
quyền và chỉ mang tính chất là một thủ tục
hình thức trong hoạt động chuyển nhượng
dự án mà không có cơ chế kiểm định hay
giám sát.
Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 cũng
đã nêu những nguyên tắc để bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của những chủ thể này
khi thực hiện việc chuyển nhượng. Theo
Điều 48 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014,
một trong những nguyên tắc mà chủ đầu tư
dự án BĐS phải đảm bảo khi thực hiện hoạt
động chuyển nhượng dự án cho chủ đầu tư
khác là phải bảo đảm quyền lợi của khách
hàng và các bên có liên quan22. Và một
trong những nghĩa vụ pháp luật bắt buộc
của chủ đầu tư chuyển nhượng dự án BĐS
là thông báo kịp thời, đầy đủ, công khai
và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng và các bên liên quan
tới dự án, phần dự án chuyển nhượng23.
Điều này được thể hiện trong quy định về
mặt thủ tục trong hoạt động chuyển nhượng
dự án, cụ thể là trước khi làm thủ tục bàn
giao, chủ đầu tư chuyển nhượng phải thông
báo bằng văn bản cho tất cả khách hàng
(nếu có) và thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng trước 15 ngày (ít nhất
03 số liên tiếp của một tờ báo phát hành tại
địa phương hoặc một đài truyền hình địa
phương hoặc Trung ương và trang thông tin
điện tử của cơ quan đầu mối (nếu có) về
việc chuyển nhượng dự án hoặc phần dự
án, quyền lợi của khách hàng và các bên có
liên quan. Trường hợp khách hàng hoặc các
bên có liên quan có ý kiến về quyền lợi của
Theo quy định tại Điều 370 Bộ luật
Dân sự (BLDS) năm 2015, việc chuyển giao
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cho người
thế nghĩa vụ được xác lập nếu được bên có
quyền đồng ý, và trường hợp nghĩa vụ của
bên có nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được
chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm
dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác25.
BLDS năm 2015 cũng quy định về nguyên
tắc thực hiện hợp đồng song vụ khi các bên
đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì
mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình
khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với
lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với
mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 411
và Điều 413 BLDS năm 201526.
Tuy nhiên, nếu đối chiếu trên thực tiễn
việc áp dụng các quy định của pháp luật
về bảo vệ khách hàng và bên có liên quan
đến hoạt động chuyển nhượng dự án thì các
nguyên tắc và quy định này không hề đạt hiệu
quả như mong đợi mà chỉ mang tính chất là
hợp thức hóa thủ tục hành chính. Tại Bản án
Dân sự Phúc thẩm số 818/2019/DS-PT ngày
18/09/2019 về “Tranh chấp hợp đồng góp
21. Khoản 1 Điều 56 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
22. Điểm c khoản 2 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
23. Điểm b khoản 1 Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
24. Khoản 4 Điều 12 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP.
25. Điều 371 Bộ luật Dân sự năm 2015.
26. Khoản 1 Điều 410 Bộ luật Dân sự năm 2015.
92
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
vốn mua bán căn hộ” của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn:
Bà Hoàng Thị Phương H; bị đơn: Công ty
Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần
Xây dựng và Kinh doanh V và Công ty trách
nhiệm hữu hạn Sản xuất và Kinh doanh B,
có nội dung: “Ngày 03/8/2009 bà H có ký
với Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất và
Kinh doanh B 06 hợp đồng góp vốn mua bán
căn hộ tại dự án chung cư Phú L. Trong quá
trình thực hiện hợp đồng, được biết ngày
16/6/2010 Công ty B đã chuyển nhượng dự
án trên cho Công ty Cổ phần Xây dựng và
Kinh doanh V. Ngày 19/02/2016 Công ty V
chuyển nhượng toàn bộ dự án trên cho Công
ty Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P theo Quyết
định số 648/QĐ-UBND của Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình
Công ty P thi công dự án trên bà đã nhiều
lần làm việc, yêu cầu Công ty P giải quyết
quyền lợi cho bà về các hợp đồng góp vốn
mua bán căn hộ tại dự án chung cư Phú L
nhưng đến nay Công ty P không giải quyết
mà vẫn rao bán các căn hộ”. Tại phần trình
bày của mình, Bà H cho rằng toàn bộ quá
trình bàn giao dự án chung cư Phú L không
có một văn bản nào ghi nhận về việc bàn
giao nghĩa vụ hợp đồng giữa bà H và Công
ty B cho bên nhận chuyển nhượng là Công
ty V và trong quá trình làm thủ tục chuyển
nhượng chung cư Phú L từ Công ty B sang
Công ty V bà H cũng không được biết. Theo
lập luận và phán quyết của Tòa án, do việc
giao kết hợp đồng giữa bà H và Công ty B để
mua bán căn hộ hình thành trong tương lai
của dự án chung cư Phú L chưa đảm bảo các
điều kiện theo pháp luật, do ký hợp đồng mua
bán khi chưa có biên bản nghiệm thu hoàn
thành xong phần móng của dự án, quá trình
chuyển nhượng dự án đã đảm bảo các thủ tục
luật định, đồng thời nhận định “Việc kế thừa
quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư chỉ đối với
những hợp đồng hợp pháp có hiệu lực pháp
luật khi chuyển nhượng Dự án. Tuy nhiên,
như đã nhận định thì 06 Hợp đồng vô hiệu
ngay từ thời điểm giao kết hợp đồng (ngày
03/8/2009) nên Công ty P không có trách
nhiệm kế thừa quyền và nghĩa vụ đối với 06
Hợp đồng khi chuyển nhượng Dự án”27. Qua
đó, tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của bà Hoàng Thị Phương H về việc buộc
Công ty Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P có trách
nhiệm hoàn trả số tiền đã mua căn hộ của
06 Hợp đồng góp vốn mua bán căn hộ ngày
03/8/2009. Như vậy, phán quyết của Tòa án
chưa xem xét đến việc bên chuyển nhượng
đã đảm bảo quyền của khách hàng liên quan
đến dự án khi thực hiện việc chuyển nhượng
dự án.
Qua Bản án nêu trên, thực tế để có
nguồn vốn thực hiện dự án, các chủ đầu tư
đều tìm cách huy động vốn ngay cả khi dự
án chưa đủ điều kiện mở bán theo luật định
thông qua các hợp đồng nhận nợ, hợp đồng
giữ chỗ, đặt cọc quyền mua, hợp đồng mua
bán trái phiếu… với mục đích huy động vốn
để có nguồn tiền thực hiện dự án. Song nếu
sau đó không thể tiếp tục thực hiện và tiến
hành chuyển nhượng dự án cho chủ đầu tư
khác thì chỉ cần đảm bảo trình tự, thủ tục
theo luật định đã có thể chuyển giao dự án
và trốn tránh được các nghĩa vụ của mình.
Trên thực tế, nghĩa vụ của chủ đầu tư chuyển
nhượng dự án là thông báo kịp thời, đầy đủ,
công khai và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi
ích hợp pháp của khách hàng và các bên liên
quan tới dự án, phần dự án chuyển nhượng28
chỉ mang tính chất thủ tục, hầu hết không có
khách hàng nào nhận được thông báo lấy ý
kiến về việc chuyển nhượng dự án hay biết
về việc chuyển nhượng dự án trong quá trình
thực hiện và chỉ thực sự biết khi việc chuyển
nhượng dự án đã hoàn tất.
27. Tham khảo thêm Bản án Dân sự Phúc thẩm số 818/2019/DS-PT ngày 18/09/2019 về “Tranh chấp hợp
đồng góp vốn mua bán căn hộ” của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
28. Điểm b khoản 1 Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
93
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Nghiên cứu pháp luật thế giới cho
thấy, vấn đề bảo vệ quyền lợi của khách
hàng và các bên có liên quan trong hoạt
động chuyển nhượng dự án là cần thiết và
bắt buộc phải thực hiện thì nhà đầu tư mới
được chuyển nhượng dự án. Tại Ấn Độ,
khoản 1 Điều 15 Luật BĐS 2016 về nghĩa
vụ của chủ đầu tư khi chuyển nhượng dự
án BĐS cho bên thứ ba quy định: “Nhà đầu
tư không được chuyển giao quyền và nghĩa
vụ của mình đối với dự án BĐS cho bên
thứ ba mà không có sự đồng ý bằng văn
bản từ 2/3 số người mua nhà dự án (ngoại
trừ chủ đầu tư) và văn bản chấp thuận
của cơ quan quản lý BĐS”29. Theo pháp
luật của Hoa Kỳ tại Bộ quy tắc liên bang -
Mục 24 - Tiểu mục B - Chương IV - Phần
401 - Điều 401.480 “Bán/Chuyển nhượng
dự án” (quy định ngày 22/3/2000, sửa đổi
ngày 26/11/2007) thì “Chủ dự án phải tiến
hành (các) cuộc họp với những người có
nhà tại dự án để phổ biến thông tin. Bên
mua phải cung cấp thông báo về buổi họp
và kết quả buổi họp đến từng hộ gia đình
trong dự án… Một đại diện của bên mua
phải tham dự các buổi họp để trình bày
kế hoạch mua lại, những thay đổi của dự
án và trả lời câu hỏi về kế hoạch. Tại buổi
họp, người dân sẽ bỏ phiếu quyết định việc
mua lại dự án, những người không tham
dự và bỏ phiếu tại cuộc họp có thể được
lấy ý kiến trong những cuộc họp tiếp theo
hoặc sau cuộc họp. Bên mua sẽ gửi tài liệu
bao gồm các lá phiếu, các kiến nghị chứng
minh sự đồng thuận của 51% cư dân đến
Bộ Gia cư và Phát triển đô thị Hoa Kỳ với
tính chất là một thành phần của hồ sơ”30.
Như vậy, pháp luật của một số nước trên
thế giới đều xây dựng cơ chế rõ ràng để
đảm bảo được quyền lợi của khách hàng và
bên có liên quan đến dự án trong hoạt động
chuyển nhượng dự án BĐS.
2.4. Bất cập giữa hình thức mua bán
sáp nhập để sở hữu vốn công ty qua đó sở
hữu dự án và chuyển nhượng dự án bất
động sản
Thực tế hiện nay, các chủ đầu tư khi
không đủ tiềm lực để thực hiện dự án hoặc
muốn chuyển nhượng dự án để thu lợi
nhuận, chuyển hướng đầu tư kinh doanh
khác khi dự án chưa đủ điều kiện chuyển
nhượng hoặc việc chuyển nhượng dự án
gặp phải khó khăn, vướng mắc về mặt thủ
tục thường chọn hình thức chuyển nhượng
cổ phần/phần vốn góp (chuyển nhượng
vốn) cho bên nhận chuyển nhượng, bên
nhận chuyển nhượng sẽ sở hữu toàn bộ
cổ phần/phần vốn góp của các cổ đông/
thành viên của công ty, qua đó trở thành
chủ sở hữu mới của công ty và gián tiếp
sở hữu dự án mà không thực hiện thủ tục
chuyển nhượng dự án BĐS theo Luật Kinh
doanh BĐS, rút ngắn được thời gian thực
hiện. Lúc này, các quy định của Luật Kinh
doanh BĐS về hoạt động chuyển nhượng
dự án BĐS không còn giá trị chi phối hay
áp dụng. Trong làn sóng M&A (mua bán
và sáp nhập) diễn ra ngày càng sôi động và
mạnh mẽ như hiện nay, các doanh nghiệp
có tiềm lực tài chính và các nhà đầu tư
nước ngoài thường nhắm đến các doanh
nghiệp tại Việt Nam đang nắm giữ các quỹ
đất, nắm quyền đầu tư kinh doanh khai
thác các khu đất có tiềm năng phát triển
thành các dự án BĐS nhà ở thương mại để
thực hiện các thương vụ thâu tóm, chủ yếu
diễn ra bằng hoạt động mua lại cổ phần,
phần vốn góp.
Theo báo cáo của các tổ chức thống
kê về kinh tế hiện nay, mặc dù hoạt động
29. “Luật Bất động sản Ấn Độ năm 2016”, http://www.aaptaxlaw.com/real-estate-act-2016/section-15-real-
15-the-real-estate-regulation-and-development-act-2016.html, truy cập ngày 22/12/2020.
30. “Bộ Quy tắc liên bang Hoa Kỳ”, http://www.ecfr.gov/cgi-bin/text-idx?SID&node=pt24.2.401&rgn=div5,
truy cập ngày 22/12/2020.
94
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
BĐS tăng trưởng chậm trong Quý I năm
2020, nhưng các công ty tên tuổi quốc tế
đã có mặt tại Việt Nam vẫn rất kiên trì
với chiến lược đầu tư bằng cách tiếp tục
tìm mua tài sản hoặc hợp tác với doanh
nghiệp nội địa có uy tín31. Theo Diễn đàn
M&A Việt Nam 2019, ước tính 7 tháng
năm 2019, giá trị những thương vụ M&A
ước đạt gần 5,43 tỷ USD. Hai lĩnh vực sôi
động nhất trên thị trường M&A Việt Nam
và hàng tiêu dùng và BĐS. Trong báo cáo
mới nhất về các hoạt động M&A nửa đầu
năm 2019, JLL cho biết, thị trường BĐS
Việt Nam 2019 bắt đầu với thương vụ
M&A của tập đoàn Keppel Land tại dự án
Đồng Nai Waterfront. Theo đó, tập đoàn
Keppel Land sẽ bán lại 70% cổ phần tại
dự án Đồng Nai Waterfront City cho tập
đoàn Nam Long với tổng số tiền là 2,313
tỷ VNĐ32. Như vậy, hiện nay, việc mua bán
sáp nhập doanh nghiệp nhằm sở hữu dự án
BĐS đang diễn ra rất lớn và chiếm tỷ trọng
lớn trong nền kinh tế.
mục tiêu khi quyết định cho phát triển toàn
bộ dự án, đảm bảo được quyền lợi cho chủ
đầu tư nhận chuyển nhượng một phần dự
án và đảm bảo sự phát triển của kinh tế - xã
hội, định hướng quy hoạch, nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật.
Thứ ba, cần cụ thể hóa các quy định
về bảo vệ khách hàng và bên có liên quan
đến dự án trong hoạt động chuyển nhượng
dự án BĐS nhằm đảm bảo cân bằng lợi
ích của các bên trong hoạt động này, tránh
vì mục tiêu đẩy mạnh, thông thoáng hoạt
động chuyển nhượng dự án mà bỏ qua việc
bảo đảm quyền lợi của bên yếu thế và đi
ngược lại quy tắc công bằng, bình đẳng của
pháp luật. Trong nền kinh tế hội nhập và
ứng dụng các công nghệ hiện đại, việc đồng
thuận và lấy ý kiến của khách hàng và bên
liên quan có khả năng thực hiện được gần
như dễ dàng và vẫn đảm bảo được quy trình
chuyển nhượng dự án, cần đưa nội dung
này thành một tiêu chí thẩm định trước thời
điểm ban hành quyết định chấp thuận cho
chuyển nhượng dự án.
3. Một số đề xuất
Để khắc phục những hạn chế, bất cập
nêu trên trong quy định của Luật Kinh doanh
BĐS về chuyển nhượng dự án BĐS, tác giả
đề xuất một số kiến nghị sau đây:
Thứ tư, việc mua bán sáp nhập công
ty nhằm sở hữu dự án có thể làm cho các
quy định của pháp luật kinh doanh BĐS
về hoạt động chuyển nhượng dự án không
còn được thực thi trên thực tế, các chủ đầu
tư có thể phân bổ các dự án cho các công ty
con nắm giữ, qua đó chuyển nhượng vốn
nhằm mục đích chính là chuyển nhượng
dự án. Do đó, cần thiết lập cơ chế pháp
lý nhằm kiểm soát các giao dịch chuyển
nhượng vốn cho mục đích chuyển nhượng
dự án để tránh bị thất thu ngân sách nhà
nước, xác định các điều kiện pháp lý cụ
thể cho một doanh nghiệp sở hữu các dự
án BĐS khi thực hiện chuyển nhượng vốn
Thứ nhất, sửa đổi các văn bản luật có
liên quan đến kinh doanh BĐS theo hướng
sử dụng thống nhất thuật ngữ “chủ đầu tư”
hoặc “nhà đầu tư”.
Thứ hai, sửa đổi Luật Kinh doanh BĐS
năm 2014 theo hướng bổ sung quy định
tiêu chí của một phần dự án được chuyển
nhượng. Việc quy định cụ thể các tiêu chí
để xác định thế nào là một phần dự án được
phép chuyển nhượng, thế nào là một phần
dự án không thể tách rời trong tổng thể dự
án nhằm đảm bảo được các nội dung về
doanh nghiệp cần phải đáp ứng
31. Nam Phong, “Làn sóng ngầm M&A bất động sản đang diễn ra”, https://cafef.vn/lan-song-ngam-ma-bat-
dong-san-dang-dien-ra-2020052016214815.chn, truy cập ngày 22/12/2020.
32. Hà Linh, “Sôi động làn sóng M&A bất động sản”, https://nhipcaudautu.vn/bat-dong-san/soi-dong-lan-
song-ma-bat-dong-san-3329904/, truy cập ngày 22/12/2020.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
95
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án bất động sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- hoan_thien_phap_luat_ve_chuyen_nhuong_du_an_bat_dong_san.pdf