Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án bất động sản

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT  
VỀ CHUYỂN NHƯỢNG DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN  
Võ Trung Tín*  
Trương Văn Quyền**  
* TS. Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.  
** Luật sư, NCS, Truong Gia InvestConsult.  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Trải qua hơn 5 năm thực hiện Luật Kinh doanh bất động sản (BĐS)1,  
thị trường BĐS đã có những khởi sắc và biến chuyển đáng kể, đặc biệt  
là hoạt động chuyển nhượng dự án BĐS diễn ra mạnh mẽ. Các dự án bị  
“trùm mền” được chuyển giao lại cho các chủ đầu tư có năng lực tiếp tục  
thực hiện bằng hoạt động chuyển nhượng dự án, đảm bảo sự phục hồi  
và phát triển của thị trường BĐS Việt Nam giai đoạn 2015-2020. Tuy  
nhiên, pháp luật về chuyển nhượng dự án BĐS vẫn còn bộc lộ nhiều bất  
cập, tạo nên rào cản cho hoạt động này, đồng thời chưa cân bằng được lợi  
ích của các bên. Với vai trò là một nội dung chính của Luật Kinh doanh  
BĐS và chi phối, tác động trực tiếp đến hoạt động chuyển nhượng dự án  
BĐS, các quy định của Luật Kinh doanh BĐS và pháp luật có liên quan  
về chuyển nhượng dự án BĐS cần được tiếp tục đánh giá và hoàn thiện  
hơn trong bối cảnh mới, tạo nên một khung pháp lý hoàn chỉnh, mang  
lại hiệu quả và đóng góp vào sự phục hồi, phát triển của thị trường, của  
nền kinh tế.  
Từ khóa: Bất động sản, kinh  
doanh bất động sản, nhà ở thương  
mại, chuyển nhượng dự án.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 07/01/2021  
: 18/01/2021  
: 20/01/2021  
Article Infomation:  
Abstract:  
Keywords: Real estate, real  
estate trading, commercial  
housing, project transfer.  
After more than 5 years of enforcement, the Law on Real Estate  
Business, the real estate market has prospered and changed significantly,  
especially the strong transfer of real estate projects. Projects known  
as "blanket covered”" are transferred to qualified investors for further  
implementation by project transfer activities, ensuring the recovery  
and development of Vietnam's real estate market in the period of  
2015- 2020. However, the provisions on real estate project transfer still  
reveals shortcomings as barriers for this activity, and not balancing the  
interests of the parties. As key provisions of the Law on Real Estate  
Business and governing and directly affecting the transfer of real estate  
projects, the provisions of the Law on Real Estate Business and related  
laws on the transfer of real estate projects. need to be further evaluated  
and improved in the new context, creating a complete legal framework,  
bringing efficiency and contributing to the recovery and development of  
the market and the economy.  
Article History:  
Received  
Edited  
: 07 Jan. 2021  
: 18 Jan. 2021  
: 20 Jan. 2021  
Approved  
86  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
1. Khái quát các quy định chuyển nhượng  
dự án bất động sản1  
động chuyển nhượng dự án BĐS là các dự  
án đầu tư kinh doanh xây dựng nhà ở thương  
mại để bán. Theo đó, dự án đầu tư xây dựng  
nhà ở là tổng hợp các đề xuất có liên quan  
đến việc sử dụng vốn để xây dựng mới nhà  
ở, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã  
hội phục vụ nhu cầu ở hoặc để cải tạo, sửa  
chữa nhà ở trên một địa điểm nhất định4 và  
chuyển nhượng dự án BĐS là việc các bên  
thực hiện hoạt động chuyển nhượng dự án  
đầu tư xây dựng nhà ở thương mại theo quy  
định của Luật Kinh doanh BĐS, Luật Nhà ở  
và pháp luật có liên quan.  
Cùng với sự phát triển của thị trường  
và nền kinh tế, hoạt động chuyển nhượng  
dự án bất động sản (BĐS) là một hoạt động  
tất yếu và khách quan, việc các chủ đầu tư  
không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án  
tiến hành chuyển nhượng cho những chủ đầu  
tư mới có năng lực triển khai hoàn thành dự  
án làm thúc đẩy và tạo động lực mới cho sự  
phát triển của thị trường. Thời gian qua, sau  
đợt suy thoái của thị trường BĐS bắt đầu từ  
năm 2011 thì giai đoạn từ năm 2015-2020 là  
giai đoạn phục hồi, phát triển của thị trường.  
Giai đoạn này ghi nhận hoạt động chuyển  
nhượng dự án diễn ra sôi nổi và đạt hiệu quả  
cao, nhiều dự án bị “trùm mền” nhiều năm  
đã được hồi sinh, hoàn thành đưa vào sử  
dụng. Điều này thể hiện sự tất yếu của chu  
kỳ kinh tế thị trường và sự đóng góp tích cực  
của pháp luật về kinh doanh BĐS điều chỉnh  
hoạt động chuyển nhượng dự án, điển hình  
là việc Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 có  
hiệu lực với nhiều nội dung tiến bộ, mở rộng  
hơn Luật Kinh doanh BĐS năm 2006.  
Theo quy định của Điều 48 Luật Kinh  
doanh BĐS năm 2014, chủ đầu tư dự án BĐS  
được quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một  
phần dự án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục  
đầu tư kinh doanh nhưng phải đảm bảo các  
nguyên tắc sau: (a) Không làm thay đổi mục  
tiêu của dự án; (b) Không làm thay đổi nội  
dung của dự án; (c) Bảo đảm quyền lợi của  
khách hàng và các bên có liên quan; (d) Việc  
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án  
BĐS phải được cơ quan nhà nước có thẩm  
quyền quyết định việc đầu tư đồng ý bằng văn  
bản. Chủ đầu tư nhận chuyển nhượng được  
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền  
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất  
hoặc được đăng ký biến động vào giấy chứng  
nhận đã cấp cho chủ đầu tư chuyển nhượng  
theo quy định của pháp luật về đất đai.  
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm  
2015, BĐS bao gồm đất đai, nhà, công trình  
xây dựng gắn liền với đất đai, tài sản khác  
gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng  
và tài sản khác theo quy định của pháp luật2.  
Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 định  
nghĩa việc kinh doanh BĐS là việc đầu tư vốn  
để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận  
chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho  
thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS; thực  
hiện dịch vụ môi giới BĐS; dịch vụ sàn giao  
dịch BĐS; dịch vụ tư vấn BĐS hoặc quản lý  
BĐS nhằm mục đích sinh lợi3. Trong phạm  
vi bài viết này, tác giả chỉ phân tích hoạt  
Điều kiện của chủ thể thực hiện việc  
chuyển nhượng và điều kiện của dự án BĐS  
chuyển nhượng được Luật Kinh doanh BĐS  
năm 2014 quy định khá rõ ràng. Theo đó,  
chủ đầu tư chuyển nhượng dự án phải đảm  
bảo đã có giấy chứng nhận về quyền sử dụng  
đất đối với toàn bộ hoặc phần dự án chuyển  
nhượng5; chủ đầu tư nhận chuyển nhượng dự  
1. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015.  
2. Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015.  
3. Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.  
4. Khoản 8 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014.  
5. Khoản 2 Điều 49 Luật Kinh doanh bất động sản 2014.  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
87  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
án phải là doanh nghiệp kinh doanh BĐS, có  
đủ năng lực tài chính và cam kết tiếp tục việc  
triển khai đầu tư xây dựng, kinh doanh theo  
đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tiến  
độ, nội dung dự án6. Điều kiện về giấy chứng  
nhận quyền sử dụng đất của dự án không yêu  
cầu cụ thể là đã thực hiện việc chuyển mục  
đích sử dụng đất để đảm bảo thực hiện đúng  
mục tiêu của dự án hay chưa. Đối với bên  
nhận chuyển nhượng phải đáp ứng các yêu  
cầu bắt buộc khi trở thành chủ đầu tư của một  
dự án BĐS để tiếp tục triển khai dự án7. Về  
điều kiện của dự án đưa vào chuyển nhượng  
phải đáp ứng các điều kiện được Luật Kinh  
doanh BĐS quy định như quy hoạch, hoàn  
thành việc bồi thường, giải phóng mặt bằng  
và xây dựng kết cấu hạ tầng, không có tranh  
chấp hay đảm bảo thi hành án, không bị thu  
hồi hay xử phạt vi phạm hành chính.  
nghĩa vụ thông báo kịp thời, đầy đủ, công  
khai và giải quyết thỏa đáng quyền và lợi ích  
khách hàng và các bên liên quan tới dự án,  
phần dự án chuyển nhượng8. Ngoài những  
quyền và nghĩa vụ được luật định, các bên  
có thể thỏa thuận thêm các điều khoản trong  
hợp đồng chuyển nhượng một phần hoặc  
toàn bộ dự án BĐS theo sự tự nguyện và tự  
do ý chí của các bên không vi phạm điều cấm  
của pháp luật. Đồng thời, các bên phải thực  
hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và  
theo quy định.  
Một trong những nội dung đáng lưu ý  
về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt  
động chuyển nhượng dự án BĐS là chỉ quy  
định về quyền và nghĩa vụ của bên chuyển  
nhượng và bên nhận chuyển nhượng dự án,  
trong khi đó quyền và nghĩa vụ của khách  
hàng và bên liên quan đến một phần hoặc  
toàn bộ dự án chuyển nhượng chỉ được đề  
cập đến như một nguyên tắc cần được bảo  
đảm trong hoạt động chuyển nhượng dự án,  
và là một phần nghĩa vụ của bên chuyển  
nhượng9. Trong khi đó, những chủ thể này có  
quyền lợi liên quan trực tiếp đến dự án, phần  
dự án chuyển nhượng và quyền, nghĩa vụ của  
những chủ thể này bị ảnh hưởng trực tiếp bởi  
hoạt động chuyển nhượng dự án. Tuy nhiên,  
việc đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ  
thể này vẫn chưa được pháp luật đề cập một  
Điều 52 Luật Kinh doanh BĐS năm  
2014 liệt kê một số quyền và nghĩa vụ của  
các bên trong hoạt động chuyển nhượng dự  
án BĐS, chủ yếu xoay quanh các quyền và  
nghĩa vụ khi thực hiện việc chuyển giao và  
tiếp nhận dự án, chuyển giao quyền và nghĩa  
vụ từ chủ đầu tư cũ sang cho chủ đầu tư mới  
khi tiếp tục triển khai dự án, phối hợp để làm  
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho bên  
nhận chuyển nhượng theo quy định của pháp  
luật về đất đai, bên chuyển nhượng phải có  
6. Khoản 3 Điều 49 Luật Kinh doanh bất động sản 2014.  
7. Về mặt chủ thể: Doanh nghiệp nhận chuyển nhượng phải có đăng ký ngành nghề kinh doanh bất động sản,  
đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 và văn bản  
hướng dẫn. Về năng lực tài chính: chủ đầu tư cần đáp ứng điều kiện về năng lực tài chính để bảo đảm việc sử  
dụng đất theo tiến độ của dự án, cụ thể: Có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20%  
tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư  
đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên và có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ  
các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Luật đất  
đai năm 2013 và văn bản hướng dẫn thi hành.  
8. Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên trong  
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản.  
9. Điểm b khoản 1 Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định: “b) Chuyển giao hồ sơ liên  
quan cho bên nhận chuyển nhượng; thông báo kịp thời, đầy đủ, công khai và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi  
ích hợp pháp của khách hàng và các bên liên quan tới dự án, phần dự án chuyển nhượng”; Và điểm c khoản  
1 Điều 48 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định: “c) Bảo đảm quyền lợi của khách hàng và các  
bên có liên quan”.  
88  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
cách cụ thể, chưa có cơ chế rõ ràng.  
trong hợp đồng mẫu nhưng hợp đồng do các  
bên ký kết phải bảo đảm có đầy đủ các nội  
dung chính đã được quy định tại Điều 18,  
Điều 47 và Điều 53 Luật Kinh doanh BĐS  
năm 2014 và nội dung cụ thể trong hợp đồng  
do các bên thỏa thuận nhưng không được trái  
với quy định của pháp luật14.  
Về hợp đồng chuyển nhượng dự án  
BĐS, Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 và  
Nghị định số 76/2015/NĐ-CP quy định  
chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh  
doanh BĐS năm 2014 đã đưa ra các nội  
dung cơ bản, yêu cầu bắt buộc của hợp đồng  
chuyển nhượng dự án BĐS. Như vậy, dựa  
trên tính đặc thù của hoạt động này, pháp  
luật quy định cụ thể một số nội dung các bên  
bắt buộc phải đưa vào hợp đồng và được lập  
thành một hợp đồng mẫu trong kinh doanh  
BĐS để các bên tham khảo áp dụng10. Cụ  
thể, Điều 53 Luật Kinh doanh BĐS đã quy  
định cụ thể các nội dung cơ bản của một  
hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ hoặc một  
phần dự án BĐS11. Về mặt nguyên tắc, hợp  
đồng là sự tự do ý chí thỏa thuận giữa các  
bên không vi phạm điều cấm của luật, không  
trái đạo đức xã hội12 và hợp đồng được tạo  
ra bởi sự ưng thuận giữa hai hoặc nhiều bên  
ký kết hợp đồng, tức hai điều kiện cần để  
tạo ra hợp đồng là chủ thể ký kết hợp đồng  
và chủ đích của sự ưng thuận13; do đó, hợp  
đồng chuyển nhượng dự án BĐS cũng là  
sự tự do thỏa thuận giữa các bên trong hoạt  
động chuyển nhượng dự án. Tuy nhiên, cần  
phải tuân thủ một số nội dung cơ bản do luật  
định. Từ đó, pháp luật về kinh doanh BĐS  
cũng đã nêu rõ việc đưa ra hợp đồng mẫu  
trong hoạt động chuyển nhượng dự án là để  
các bên tham khảo trong quá trình thương  
thảo, ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa  
thuận để sửa đổi, bổ sung các điều, khoản  
Về thẩm quyền cho phép chuyển  
nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án BĐS,  
Điều 50 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014  
quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành  
phố trực thuộc trung ương quyết định cho  
phép chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần  
dự án BĐS đối với các dự án do Ủy ban  
nhân dân cấp tỉnh quyết định việc đầu tư;  
Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép  
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án  
BĐS đối với dự án do Thủ tướng Chính phủ  
quyết định việc đầu tư. Trình tự, thủ tục, nội  
dung thẩm định và thành phần hồ sơ chuyển  
nhượng dự án BĐS được quy định tại Điều  
51 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 và Nghị  
định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của  
Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một  
số điều của Luật Kinh doanh BĐS năm 2014,  
Quyết định số 832/QĐ-BXD ngày 29/8/2016  
của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc “Công  
bố thủ tục hành chính được thay thế và thủ  
tục hành chính bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ trong  
lĩnh vực kinh doanh BĐS thuộc phạm vi chức  
năng quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng”15.  
Có thể thấy rằng, Luật Kinh doanh BĐS  
năm 2014 có những tiến bộ và cởi mở hơn so  
với Luật Kinh doanh BĐS năm 2006. Luật  
10. Khoản 5 Điều 6 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP.  
11. Các nội dung cơ bản của hợp đồng được quy định cụ thể tại Điều 53 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.  
12. Trần Kiên, Nguyễn Khắc Thu, “Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp  
luật hợp đồng Việt Nam”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210246, truy cập ngày  
22/12/2020.  
13. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất  
bản, Sài Gòn, 1963, tr. 56–57.  
14. Điều 7 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP và điểm 1, mục II Công văn số 1436/BXD-QLN ngày 30/06/2015  
của Bộ Xây dựng về việc Thực hiện Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 và Luật Kinh doanh bất động sản số  
66/2014/QH13.  
15. Điều 12, Điều 13, Điều 14 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP.  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
89  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
đã xây dựng được hệ thống quy định tương  
đối chi tiết, toàn diện về nguyên tắc, điều  
kiện, quy trình chuyển nhượng, quyền và  
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động chuyển  
nhượng dự án BĐS, mở rộng phạm vi cho  
phép chủ đầu tư được chuyển nhượng một  
phần dự án thay vì chỉ được chuyển nhượng  
toàn bộ dự án như trước đây16. Những tiến  
bộ của pháp luật đã góp phần cởi trói cho  
thị trường BĐS, đem lại những tác động  
tích cực đến thị trường, đẩy mạnh hoạt động  
chuyển nhượng dự án để các chủ đầu tư có  
năng lực tiếp tục triển khai hoàn thành dự án,  
cung cấp nguồn vốn cho các chủ đầu tư đang  
gặp khó khăn tài chính có thể khắc phục hoạt  
động kinh doanh, ngoài ra cũng giúp khách  
hàng có thể sở hữu được những sản phẩm  
BĐS như mong muốn, đóng góp đáng kể vào  
ngân sách nhà nước.  
quyết định chủ trương đầu tư theo Luật  
Đầu tư năm 2014, các bên thực hiện việc  
chuyển nhượng dự án theo Luật Kinh doanh  
BĐS năm 2014, và sau khi hoàn thành việc  
chuyển nhượng dự án thì phải tiếp tục thực  
hiện việc điều chỉnh quyết định chủ trương  
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư do có  
sự thay đổi thông tin của nhà đầu tư thực  
hiện dự án. Cụ thể, theo khoản 4 Điều 40  
Luật Đầu tư năm 2014 quy định đối với  
các dự án thuộc diện phải quyết định chủ  
trương đầu tư, khi thay đổi nhà đầu tư hoặc  
thay đổi điều kiện đối với nhà đầu tư (nếu  
có), cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện thủ  
tục quyết định chủ trương đầu tư trước khi  
điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.  
Điều này dẫn đến sự lúng túng, kéo dài thời  
gian thực hiện thủ tục hành chính trong áp  
dụng pháp luật của cả cơ quan thẩm quyền  
và doanh nghiệp trong suốt thời gian qua.  
Tức là dự án đã thực hiện hoàn thành việc  
chuyển nhượng, thay đổi chủ đầu tư thực  
hiện dự án lại phải tiếp tục thực hiện việc  
điều chỉnh quyết định chủ trương đầu tư,  
mặc dù về bản chất cũng chỉ là sự thay đổi  
về chủ đầu tư thực hiện dự án.  
2. Những bất cập trong quy định về  
chuyển nhượng dự án bất động sản  
2.1. Sự không thống nhất giữa Luật  
Kinh doanh bất động sản và các luật có  
liên quan  
Thực tế hiện nay rất hiếm doanh nghiệp  
có toàn bộ diện tích đất ở hợp pháp để được  
chỉ định làm chủ đầu tư dự án đầu tư kinh  
doanh nhà ở thương mại17 theo quy định  
của Luật Nhà ở năm 2014. Do đó, hầu hết  
các dự án đầu tư kinh doanh nhà ở thương  
mại đều phải thực hiện việc quyết định chủ  
trương đầu tư do cơ quan đăng ký đầu tư cấp  
tỉnh chủ trì thẩm định và áp dụng theo Luật  
Đầu tư năm 2014. Đến khi đủ điều kiện để  
được chuyển nhượng dự án, chủ đầu tư nếu  
vì lý do nào đó mà không thể tiếp tục thực  
hiện dự án thì tiến hành hoạt động chuyển  
nhượng dự án theo Luật Kinh doanh BĐS  
năm 2014. Như vậy, theo quy trình hiện  
nay, khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng  
dự án BĐS là nhà ở thương mại đã được  
Có thể nhận thấy rằng, về mặt bản chất,  
việc doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư để đầu tư  
dự án BĐS là nhà ở thương mại nhằm mục  
đích thu lợi nhuận là một hoạt động đầu tư  
đơn thuần theo pháp luật đầu tư và chịu sự  
chi phối của Luật Đầu tư. Tuy nhiên, do hoạt  
động đầu tư này mang tính chất một hoạt  
động đặc thù, có liên quan đến kinh doanh  
quyền sử dụng đất, thị trường BĐS và kế  
hoạch phát triển nhà ở do đó cũng chịu sự  
điều chỉnh của Luật Kinh doanh BĐS và Luật  
Nhà ở. Do đó, nếu cùng một hoạt động, một  
sự kiện pháp lý nhưng chịu sự điều chỉnh của  
nhiều luật chuyên ngành dễ xảy ra tình trạng  
thiếu nhất quán trong các văn bản pháp luật.  
16. Đỗ Xuân Trọng, “Chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh bất động sản những bất cập từ Luật Kinh  
17. Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Nhà ở năm 2014.  
90  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
Điều này dẫn đến sự chồng chéo, trùng lắp  
trong quá trình áp dụng pháp luật, gây khó  
khăn cho hoạt động của doanh nghiệp.  
BĐS có thể gây nhầm lẫn, áp dụng thiếu  
thống nhất trong thực hiện pháp luật.  
2.2. Bất cập về chuyển nhượng một  
phần dự án và chuyển nhượng toàn bộ dự  
án bất động sản  
Bên cạnh đó, giữa các văn bản pháp  
luật hiện hành còn có sự thiếu thống nhất  
trong sử dụng thuật ngữ “nhà đầu tư” hay  
“chủ đầu tư”. Luật Đầu tư năm 2014 sử  
dụng nhất quán thuật ngữ “nhà đầu tư” để  
chỉ tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động  
đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong  
nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức  
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài18 Trong  
khi đó, Luật Kinh doanh BĐS, Luật Nhà ở  
lại sử dụng khái niệm “chủ đầu tư” để chỉ  
doanh nghiệp thực hiện việc bỏ vốn để đầu  
tư kinh doanh dự án BĐS, cụ thể, khoản 1  
Điều 48 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014  
quy định: “Chủ đầu tư dự án BĐS được  
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự  
án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục đầu tư  
kinh doanh”; khoản 3 Điều 49 Luật Kinh  
doanh BĐS năm 2014 quy định: “Chủ đầu  
tư nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một  
phần dự án BĐS phải là doanh nghiệp kinh  
doanh BĐS, ….”; Điều 21 Luật Nhà ở năm  
2014 quy định các điều kiện để làm chủ đầu  
tư dự án xây dựng nhà ở thương mại; Điều  
22 Luật Nhà ở năm 2014 quy định về lựa  
chọn chủ đầu tư dự án.  
Như đã đề cập trên đây, Luật Kinh  
doanh BĐS năm 2014 cho phép nhà đầu tư  
chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án  
đầu tư cho nhà đầu tư khác khi đáp ứng các  
điều kiện được pháp luật quy định.  
Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa quy định  
như thế nào được xem là một phần dự án  
được phép chuyển nhượng trong tổng thể  
của một dự án, hay đưa ra các tiêu chí để xác  
định một phần của dự án được phép đủ điều  
kiện chuyển nhượng.  
Trên thực tế, một số dự án đã được chủ  
đầu tư tiến hành tách nhỏ để chuyển nhượng  
một phần dự án nhằm thực hiện mục tiêu  
kinh doanh của mình, cụ thể chủ đầu tư có  
thể chuyển nhượng phần dự án kinh doanh  
thương mại dịch vụ trước trong tổng thể dự án  
nhằm thu hồi vốn để tiếp tục phát triển phần  
dự án còn lại. Điều này dẫn đến khả năng  
dự án sẽ bị tách thành nhiều phần và chuyển  
nhượng cho nhiều chủ đầu tư khác nhau làm  
phân mảnh dự án, gây ảnh hưởng đến quy  
hoạch chung của tổng thể dự án lúc ban đầu.  
2.3. Vấn đề bảo vệ bên thứ ba trong  
hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư kinh  
doanh bất động sản chưa được đảm bảo  
Khoản 9 Điều 3 Luật Xây dựng năm  
2014 đưa ra định nghĩa: Chủ đầu tư xây  
dựng (sau đây gọi là chủ đầu tư) là cơ quan,  
tổ chức, cá nhân sở hữu vốn, vay vốn hoặc  
được giao trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để  
thực hiện hoạt động đầu tư xây dựng”.  
Trong hoạt động đầu tư kinh doanh  
BĐS là dự án nhà ở thương mại hình thành  
trong tương lai, sau khi đủ điều kiện luật  
định19, chủ đầu tư sẽ thực hiện hoạt động  
huy động vốn từ khách hàng, ngân hàng,  
các tổ chức tài chính để có nguồn tài chính  
thực hiện dự án20, ngoài ra, chủ đầu tư còn  
Như vậy, việc sử dụng không thống nhất  
giữa thuật ngữ “nhà đầu tư” trong Luật Đầu  
tư và “chủ đầu tư” trong Luật Kinh doanh  
18. Khoản 13 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014.  
19. Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định cụ thể về điều kiện của bất động sản hình thành  
trong tương lai được đưa vào kinh doanh.  
20. Vốn để thực hiện cho việc phát triển nhà ở thương mại được Điều 69 Luật Nhà ở 2014 quy định gồm:“Vốn  
thuộc sở hữu của chủ đầu tư; Vốn huy động; Tiền mua, tiền thuê mua, tiền thuê, nhà ở trả trước theo hợp đồng  
mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai; Vốn vay từ tổ chức tín dụng, tổ chức tài  
chính đang hoạt động tại Việt Nam”.  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
91  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
thực hiện ký kết hợp đồng với các nhà thầu,  
nhà cung cấp vật tư xây dựng, các hợp đồng  
tư vấn thiết kế, hợp đồng bảo lãnh của ngân  
hàng thương mại21. Do đó, trong quá trình  
này, chủ đầu tư dự án sẽ xác lập nhiều mối  
quan hệ hợp đồng song vụ với các bên,  
trong đó có thể nêu điển hình là khách hàng,  
ngân hàng và nhà thầu.  
mình liên quan đến dự án hoặc một phần dự  
án chuyển nhượng thì chủ đầu tư chuyển  
nhượng có trách nhiệm giải quyết theo quy  
định của pháp luật trước khi ký hợp đồng  
chuyển nhượng24. Tức là việc thông báo và  
giải quyết các quyền lợi của khách hàng và  
các bên liên quan đến dự án được thực hiện  
sau khi có quyết định chấp thuận về việc  
chuyển nhượng dự án của cơ quan thẩm  
quyền và chỉ mang tính chất là một thủ tục  
hình thức trong hoạt động chuyển nhượng  
dự án mà không có cơ chế kiểm định hay  
giám sát.  
Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 cũng  
đã nêu những nguyên tắc để bảo đảm quyền  
và lợi ích hợp pháp của những chủ thể này  
khi thực hiện việc chuyển nhượng. Theo  
Điều 48 Luật Kinh doanh BĐS năm 2014,  
một trong những nguyên tắc mà chủ đầu tư  
dự án BĐS phải đảm bảo khi thực hiện hoạt  
động chuyển nhượng dự án cho chủ đầu tư  
khác là phải bảo đảm quyền lợi của khách  
hàng và các bên có liên quan22. Và một  
trong những nghĩa vụ pháp luật bắt buộc  
của chủ đầu tư chuyển nhượng dự án BĐS  
là thông báo kịp thời, đầy đủ, công khai  
và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi ích hợp  
pháp của khách hàng và các bên liên quan  
tới dự án, phần dự án chuyển nhượng23.  
Điều này được thể hiện trong quy định về  
mặt thủ tục trong hoạt động chuyển nhượng  
dự án, cụ thể là trước khi làm thủ tục bàn  
giao, chủ đầu tư chuyển nhượng phải thông  
báo bằng văn bản cho tất cả khách hàng  
(nếu có) và thông báo trên phương tiện  
thông tin đại chúng trước 15 ngày (ít nhất  
03 số liên tiếp của một tờ báo phát hành tại  
địa phương hoặc một đài truyền hình địa  
phương hoặc Trung ương và trang thông tin  
điện tử của cơ quan đầu mối (nếu có) về  
việc chuyển nhượng dự án hoặc phần dự  
án, quyền lợi của khách hàng và các bên có  
liên quan. Trường hợp khách hàng hoặc các  
bên có liên quan có ý kiến về quyền lợi của  
Theo quy định tại Điều 370 Bộ luật  
Dân sự (BLDS) năm 2015, việc chuyển giao  
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cho người  
thế nghĩa vụ được xác lập nếu được bên có  
quyền đồng ý, và trường hợp nghĩa vụ của  
bên có nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được  
chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm  
dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác25.  
BLDS năm 2015 cũng quy định về nguyên  
tắc thực hiện hợp đồng song vụ khi các bên  
đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì  
mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình  
khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với  
lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với  
mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 411  
và Điều 413 BLDS năm 201526.  
Tuy nhiên, nếu đối chiếu trên thực tiễn  
việc áp dụng các quy định của pháp luật  
về bảo vệ khách hàng và bên có liên quan  
đến hoạt động chuyển nhượng dự án thì các  
nguyên tắc và quy định này không hề đạt hiệu  
quả như mong đợi mà chỉ mang tính chất là  
hợp thức hóa thủ tục hành chính. Tại Bản án  
Dân sự Phúc thẩm số 818/2019/DS-PT ngày  
18/09/2019 về “Tranh chấp hợp đồng góp  
21. Khoản 1 Điều 56 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.  
22. Điểm c khoản 2 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.  
23. Điểm b khoản 1 Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.  
24. Khoản 4 Điều 12 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP.  
25. Điều 371 Bộ luật Dân sự năm 2015.  
26. Khoản 1 Điều 410 Bộ luật Dân sự năm 2015.  
92  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
vốn mua bán căn hộ” của Tòa án nhân dân  
Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn:  
Bà Hoàng Thị Phương H; bị đơn: Công ty  
Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P; người có quyền  
lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần  
Xây dựng và Kinh doanh V và Công ty trách  
nhiệm hữu hạn Sản xuất và Kinh doanh B,  
có nội dung: “Ngày 03/8/2009 bà H có ký  
với Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất và  
Kinh doanh B 06 hợp đồng góp vốn mua bán  
căn hộ tại dự án chung cư Phú L. Trong quá  
trình thực hiện hợp đồng, được biết ngày  
16/6/2010 Công ty B đã chuyển nhượng dự  
án trên cho Công ty Cổ phần Xây dựng và  
Kinh doanh V. Ngày 19/02/2016 Công ty V  
chuyển nhượng toàn bộ dự án trên cho Công  
ty Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P theo Quyết  
định số 648/QĐ-UBND của Ủy ban nhân  
dân Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình  
Công ty P thi công dự án trên bà đã nhiều  
lần làm việc, yêu cầu Công ty P giải quyết  
quyền lợi cho bà về các hợp đồng góp vốn  
mua bán căn hộ tại dự án chung cư Phú L  
nhưng đến nay Công ty P không giải quyết  
mà vẫn rao bán các căn hộ”. Tại phần trình  
bày của mình, Bà H cho rằng toàn bộ quá  
trình bàn giao dự án chung cư Phú L không  
có một văn bản nào ghi nhận về việc bàn  
giao nghĩa vụ hợp đồng giữa bà H và Công  
ty B cho bên nhận chuyển nhượng là Công  
ty V và trong quá trình làm thủ tục chuyển  
nhượng chung cư Phú L từ Công ty B sang  
Công ty V bà H cũng không được biết. Theo  
lập luận và phán quyết của Tòa án, do việc  
giao kết hợp đồng giữa bà H và Công ty B để  
mua bán căn hộ hình thành trong tương lai  
của dự án chung cư Phú L chưa đảm bảo các  
điều kiện theo pháp luật, do ký hợp đồng mua  
bán khi chưa có biên bản nghiệm thu hoàn  
thành xong phần móng của dự án, quá trình  
chuyển nhượng dự án đã đảm bảo các thủ tục  
luật định, đồng thời nhận định “Việc kế thừa  
quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư chỉ đối với  
những hợp đồng hợp pháp có hiệu lực pháp  
luật khi chuyển nhượng Dự án. Tuy nhiên,  
như đã nhận định thì 06 Hợp đồng vô hiệu  
ngay từ thời điểm giao kết hợp đồng (ngày  
03/8/2009) nên Công ty P không có trách  
nhiệm kế thừa quyền và nghĩa vụ đối với 06  
Hợp đồng khi chuyển nhượng Dự án”27. Qua  
đó, tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện  
của bà Hoàng Thị Phương H về việc buộc  
Công ty Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P có trách  
nhiệm hoàn trả số tiền đã mua căn hộ của  
06 Hợp đồng góp vốn mua bán căn hộ ngày  
03/8/2009. Như vậy, phán quyết của Tòa án  
chưa xem xét đến việc bên chuyển nhượng  
đã đảm bảo quyền của khách hàng liên quan  
đến dự án khi thực hiện việc chuyển nhượng  
dự án.  
Qua Bản án nêu trên, thực tế để có  
nguồn vốn thực hiện dự án, các chủ đầu tư  
đều tìm cách huy động vốn ngay cả khi dự  
án chưa đủ điều kiện mở bán theo luật định  
thông qua các hợp đồng nhận nợ, hợp đồng  
giữ chỗ, đặt cọc quyền mua, hợp đồng mua  
bán trái phiếu… với mục đích huy động vốn  
để có nguồn tiền thực hiện dự án. Song nếu  
sau đó không thể tiếp tục thực hiện và tiến  
hành chuyển nhượng dự án cho chủ đầu tư  
khác thì chỉ cần đảm bảo trình tự, thủ tục  
theo luật định đã có thể chuyển giao dự án  
và trốn tránh được các nghĩa vụ của mình.  
Trên thực tế, nghĩa vụ của chủ đầu tư chuyển  
nhượng dự án là thông báo kịp thời, đầy đủ,  
công khai và giải quyết thỏa đáng quyền, lợi  
ích hợp pháp của khách hàng và các bên liên  
quan tới dự án, phần dự án chuyển nhượng28  
chỉ mang tính chất thủ tục, hầu hết không có  
khách hàng nào nhận được thông báo lấy ý  
kiến về việc chuyển nhượng dự án hay biết  
về việc chuyển nhượng dự án trong quá trình  
thực hiện và chỉ thực sự biết khi việc chuyển  
nhượng dự án đã hoàn tất.  
27. Tham khảo thêm Bản án Dân sự Phúc thẩm số 818/2019/DS-PT ngày 18/09/2019 về “Tranh chấp hợp  
đồng góp vốn mua bán căn hộ” của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.  
28. Điểm b khoản 1 Điều 52 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
93  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
Nghiên cứu pháp luật thế giới cho  
thấy, vấn đề bảo vệ quyền lợi của khách  
hàng và các bên có liên quan trong hoạt  
động chuyển nhượng dự án là cần thiết và  
bắt buộc phải thực hiện thì nhà đầu tư mới  
được chuyển nhượng dự án. Tại Ấn Độ,  
khoản 1 Điều 15 Luật BĐS 2016 về nghĩa  
vụ của chủ đầu tư khi chuyển nhượng dự  
án BĐS cho bên thứ ba quy định: “Nhà đầu  
tư không được chuyển giao quyền và nghĩa  
vụ của mình đối với dự án BĐS cho bên  
thứ ba mà không có sự đồng ý bằng văn  
bản từ 2/3 số người mua nhà dự án (ngoại  
trừ chủ đầu tư) và văn bản chấp thuận  
của cơ quan quản lý BĐS”29. Theo pháp  
luật của Hoa Kỳ tại Bộ quy tắc liên bang -  
Mục 24 - Tiểu mục B - Chương IV - Phần  
401 - Điều 401.480 “Bán/Chuyển nhượng  
dự án” (quy định ngày 22/3/2000, sửa đổi  
ngày 26/11/2007) thì “Chủ dự án phải tiến  
hành (các) cuộc họp với những người có  
nhà tại dự án để phổ biến thông tin. Bên  
mua phải cung cấp thông báo về buổi họp  
và kết quả buổi họp đến từng hộ gia đình  
trong dự án… Một đại diện của bên mua  
phải tham dự các buổi họp để trình bày  
kế hoạch mua lại, những thay đổi của dự  
án và trả lời câu hỏi về kế hoạch. Tại buổi  
họp, người dân sẽ bỏ phiếu quyết định việc  
mua lại dự án, những người không tham  
dự và bỏ phiếu tại cuộc họp có thể được  
lấy ý kiến trong những cuộc họp tiếp theo  
hoặc sau cuộc họp. Bên mua sẽ gửi tài liệu  
bao gồm các lá phiếu, các kiến nghị chứng  
minh sự đồng thuận của 51% cư dân đến  
Bộ Gia cư và Phát triển đô thị Hoa Kỳ với  
tính chất là một thành phần của hồ sơ”30.  
Như vậy, pháp luật của một số nước trên  
thế giới đều xây dựng cơ chế rõ ràng để  
đảm bảo được quyền lợi của khách hàng và  
bên có liên quan đến dự án trong hoạt động  
chuyển nhượng dự án BĐS.  
2.4. Bất cập giữa hình thức mua bán  
sáp nhập để sở hữu vốn công ty qua đó sở  
hữu dự án và chuyển nhượng dự án bất  
động sản  
Thực tế hiện nay, các chủ đầu tư khi  
không đủ tiềm lực để thực hiện dự án hoặc  
muốn chuyển nhượng dự án để thu lợi  
nhuận, chuyển hướng đầu tư kinh doanh  
khác khi dự án chưa đủ điều kiện chuyển  
nhượng hoặc việc chuyển nhượng dự án  
gặp phải khó khăn, vướng mắc về mặt thủ  
tục thường chọn hình thức chuyển nhượng  
cổ phần/phần vốn góp (chuyển nhượng  
vốn) cho bên nhận chuyển nhượng, bên  
nhận chuyển nhượng sẽ sở hữu toàn bộ  
cổ phần/phần vốn góp của các cổ đông/  
thành viên của công ty, qua đó trở thành  
chủ sở hữu mới của công ty và gián tiếp  
sở hữu dự án mà không thực hiện thủ tục  
chuyển nhượng dự án BĐS theo Luật Kinh  
doanh BĐS, rút ngắn được thời gian thực  
hiện. Lúc này, các quy định của Luật Kinh  
doanh BĐS về hoạt động chuyển nhượng  
dự án BĐS không còn giá trị chi phối hay  
áp dụng. Trong làn sóng M&A (mua bán  
và sáp nhập) diễn ra ngày càng sôi động và  
mạnh mẽ như hiện nay, các doanh nghiệp  
có tiềm lực tài chính và các nhà đầu tư  
nước ngoài thường nhắm đến các doanh  
nghiệp tại Việt Nam đang nắm giữ các quỹ  
đất, nắm quyền đầu tư kinh doanh khai  
thác các khu đất có tiềm năng phát triển  
thành các dự án BĐS nhà ở thương mại để  
thực hiện các thương vụ thâu tóm, chủ yếu  
diễn ra bằng hoạt động mua lại cổ phần,  
phần vốn góp.  
Theo báo cáo của các tổ chức thống  
kê về kinh tế hiện nay, mặc dù hoạt động  
29. “Luật Bất động sản Ấn Độ năm 2016”, http://www.aaptaxlaw.com/real-estate-act-2016/section-15-real-  
30. “Bộ Quy tắc liên bang Hoa Kỳ”, http://www.ecfr.gov/cgi-bin/text-idx?SID&node=pt24.2.401&rgn=div5,  
truy cập ngày 22/12/2020.  
94  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT  
BĐS tăng trưởng chậm trong Quý I năm  
2020, nhưng các công ty tên tuổi quốc tế  
đã có mặt tại Việt Nam vẫn rất kiên trì  
với chiến lược đầu tư bằng cách tiếp tục  
tìm mua tài sản hoặc hợp tác với doanh  
nghiệp nội địa có uy tín31. Theo Diễn đàn  
M&A Việt Nam 2019, ước tính 7 tháng  
năm 2019, giá trị những thương vụ M&A  
ước đạt gần 5,43 tỷ USD. Hai lĩnh vực sôi  
động nhất trên thị trường M&A Việt Nam  
và hàng tiêu dùng và BĐS. Trong báo cáo  
mới nhất về các hoạt động M&A nửa đầu  
năm 2019, JLL cho biết, thị trường BĐS  
Việt Nam 2019 bắt đầu với thương vụ  
M&A của tập đoàn Keppel Land tại dự án  
Đồng Nai Waterfront. Theo đó, tập đoàn  
Keppel Land sẽ bán lại 70% cổ phần tại  
dự án Đồng Nai Waterfront City cho tập  
đoàn Nam Long với tổng số tiền là 2,313  
tỷ VNĐ32. Như vậy, hiện nay, việc mua bán  
sáp nhập doanh nghiệp nhằm sở hữu dự án  
BĐS đang diễn ra rất lớn và chiếm tỷ trọng  
lớn trong nền kinh tế.  
mục tiêu khi quyết định cho phát triển toàn  
bộ dự án, đảm bảo được quyền lợi cho chủ  
đầu tư nhận chuyển nhượng một phần dự  
án và đảm bảo sự phát triển của kinh tế - xã  
hội, định hướng quy hoạch, nâng cao hiệu  
quả áp dụng pháp luật.  
Thứ ba, cần cụ thể hóa các quy định  
về bảo vệ khách hàng và bên có liên quan  
đến dự án trong hoạt động chuyển nhượng  
dự án BĐS nhằm đảm bảo cân bằng lợi  
ích của các bên trong hoạt động này, tránh  
vì mục tiêu đẩy mạnh, thông thoáng hoạt  
động chuyển nhượng dự án mà bỏ qua việc  
bảo đảm quyền lợi của bên yếu thế và đi  
ngược lại quy tắc công bằng, bình đẳng của  
pháp luật. Trong nền kinh tế hội nhập và  
ứng dụng các công nghệ hiện đại, việc đồng  
thuận và lấy ý kiến của khách hàng và bên  
liên quan có khả năng thực hiện được gần  
như dễ dàng và vẫn đảm bảo được quy trình  
chuyển nhượng dự án, cần đưa nội dung  
này thành một tiêu chí thẩm định trước thời  
điểm ban hành quyết định chấp thuận cho  
chuyển nhượng dự án.  
3. Một số đề xuất  
Để khắc phục những hạn chế, bất cập  
nêu trên trong quy định của Luật Kinh doanh  
BĐS về chuyển nhượng dự án BĐS, tác giả  
đề xuất một số kiến nghị sau đây:  
Thứ tư, việc mua bán sáp nhập công  
ty nhằm sở hữu dự án có thể làm cho các  
quy định của pháp luật kinh doanh BĐS  
về hoạt động chuyển nhượng dự án không  
còn được thực thi trên thực tế, các chủ đầu  
tư có thể phân bổ các dự án cho các công ty  
con nắm giữ, qua đó chuyển nhượng vốn  
nhằm mục đích chính là chuyển nhượng  
dự án. Do đó, cần thiết lập cơ chế pháp  
lý nhằm kiểm soát các giao dịch chuyển  
nhượng vốn cho mục đích chuyển nhượng  
dự án để tránh bị thất thu ngân sách nhà  
nước, xác định các điều kiện pháp lý cụ  
thể cho một doanh nghiệp sở hữu các dự  
án BĐS khi thực hiện chuyển nhượng vốn  
Thứ nhất, sửa đổi các văn bản luật có  
liên quan đến kinh doanh BĐS theo hướng  
sử dụng thống nhất thuật ngữ “chủ đầu tư”  
hoặc “nhà đầu tư”.  
Thứ hai, sửa đổi Luật Kinh doanh BĐS  
năm 2014 theo hướng bổ sung quy định  
tiêu chí của một phần dự án được chuyển  
nhượng. Việc quy định cụ thể các tiêu chí  
để xác định thế nào là một phần dự án được  
phép chuyển nhượng, thế nào là một phần  
dự án không thể tách rời trong tổng thể dự  
án nhằm đảm bảo được các nội dung về  
doanh nghiệp cần phải đáp ứng  
31. Nam Phong, “Làn sóng ngầm M&A bất động sản đang diễn ra”, https://cafef.vn/lan-song-ngam-ma-bat-  
dong-san-dang-dien-ra-2020052016214815.chn, truy cập ngày 22/12/2020.  
32. Hà Linh, “Sôi động làn sóng M&A bất động sản”, https://nhipcaudautu.vn/bat-dong-san/soi-dong-lan-  
song-ma-bat-dong-san-3329904/, truy cập ngày 22/12/2020.  
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021  
95  
pdf 10 trang yennguyen 20/04/2022 1900
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án bất động sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_phap_luat_ve_chuyen_nhuong_du_an_bat_dong_san.pdf